Tìm hiểu chi tiết về kỵ binh và tượng binh

[ẹc]

...
Staff member
Kỵ Binh

Kỵ binh (Cavaleria) ban đầu là những người lính cưỡi ngựa và chiến đấu dưới đất khi đã tới chiến trường, sau này mới hình thành nên nghệ thuật chiến đấu trên lưng ngựa và trở thành những kỵ binh đúng nghĩa.Có thể nói điều này đã xuất hiện rất sớm và được mô tả trên những bức phù điêu trong cung điện các vị vua xứ Babylon, của người Celtic hay từ nền văn minh Tây Á cổ. Chứng tỏ một điều, con người sử dụng ngựa trong việc chiến đấu đã xuất hiện cách đây ít nhất đầu thiên niên kỉ thứ 1 trước công nguyên. Người Hy Lạp và Trung Hoa là những người đã xây dựng nên đội quân kỵ binh chính quy đầu tiên trên thế giới.


cuirassiers002-c6b59.jpg


Không chỉ dùng ngựa, các kị binh còn sử dụng hầu hết những con vật có thể thuần hóa được và sử dụng nó như ngựa chiến. Điển hình là lạc đà và voi. Trường hợp sử dụng chiến xa ngựa kéo như người Hy lạp và Ai cập cũng có thể tính là kỵ binh ( Chariot ).


image005-6db04.jpg


Trong những bức tranh Trung Cận Đông mô tả cảnh những chú lạc đà sánh bước cùng ngựa chiến trong những binh đoàn đa sắc tộc. Thậm chí cho đến hiện tại vẫn còn những binh đoàn lạc đà vẫn còn tồn tại ở vùng Saudia Arabia. Luận về tốc độ lạc đà không bằng ngựa nhưng chúng lại được huấn luyện tốt để thích ứng với điều kiện chiến đấu trên sa mạc khô cằn. Sức chiu đựng của lạc đà cũng tốt hơn ngựa khá nhiều.

Về loài ngựa thì sự tồn tại của nó có lẽ quyết định cho sự phát triển của cả một đế chế, thậm chí là thay đổi lại toàn bộ lịch sử thế giới. Người Mông Cổ là một ví dụ điển hình.

Ban đầu người Mông Cổ chỉ là nhóm những bộ tộc đơn lẻ sinh sống trên vùng thảo nguyên bán sa mạc. Những cư dân thảo nguyên này còn khá hoang dã và thiểu số, họ sinh sống bằng cách chăn thả súc vật trên đồng cỏ và hoàn toàn không biết gì về nông nghiệp. Vào đầu thế kỉ XI, vùng đất bán sa mạc Trung Á khí hậu bỗng trở nên tốt hơn. Mưa nhiều khiến cỏ trở nên cao và dày hơn, điều này thúc đẩy sự phát triển của 5 loài gia súc : ngựa, cừu, dê, lạc đà và bò của người Mông Cổ. Thức ăn cũng phong phú hơn theo đó cư dân thảo nguyên cũng tăng dần.


image009-6db04.jpg


Và rồi điều gì cần đến cũng phải đến, cuối thế kỷ XII nơi đó đã hình thành một đạo quân khổng lồ mà Thành Cát Tư Hãn đã dẫn đầu vào các chiến dịch chinh phạt. Đạo quân đó gồm các đội kỵ binh với hàng chục ngàn kỵ sĩ. Ngựa Mông Cổ thấp bé, song rất khỏe, đặc biệt dai sức và dễ nuôi. Hơn thế nữa, trong những cuộc chinh phạt dài ngày, những chiến binh Mông Cổ mệt mỏi vì đói và khát có thể dùng dao khoét lỗ nhỏ trên cổ con ngựa và uống máu nóng của nó. Những trận chiến của họ chủ yếu là để cướp bóc và đốt phá một cách tàn bạo, rất ít có sự chống trả.


image011-6db04.jpg
Những trận đánh theo phong cách lấy thịt đè người của người Mông Cổ


Nói một cách đơn giản chính những trận mưa trên vùng Trung Á đã tạo ra một đạo quân khát máu bậc nhất thế giới khiến cả Châu Âu và Châu Á phải run sợ. Tuy nhiên đạo kỵ binh tàn bạo này lại bị chặn đứng tại Việt Nam không chỉ bởi chiến thuật quân sự điêu luyện của các danh tướng nước ta mà còn gặp phải những điều kiện chiến đấu khác lạ của đất nước nhiệt đới xa xôi này. Đó chính là tượng binh.

Tượng binh

image013-6db04.jpg


Tượng binh ( voi chiến ) là một lực lượng đặc biệt hiếm khi sử dụng trong các trận chiến nhưng khi đã sử dụng thường rất hiệu quả. Trong suốt thời kì cổ đại cho đến trung cổ, tượng binh không được phát triển ở Châu Âu nhưng ở vùng Trung Á và Châu Á thì lực lượng tượng binh khá phát triển. Có lẽ một phần là do phương Đông có mối trường thích hợp cho loài voi sinh trưởng . Tượng binh thực sự rất mạnh mẽ, có thể coi là những cỗ xe tăng càn quét chiến trường dù với số lượng ít ỏi.


image015-6db04.jpg


Tuy nhiên không phải trận chiến nào cũng thích hợp sử dụng tượng binh. Tượng binh chỉ thích hợp khi đối mặt với một lực lượng đông đảo quân địch ở vị trí thoáng rộng hơn là đuổi theo những tên lính lẻ tẻ ở nơi có địa hình phức tạp. Voi rất khỏe và hung dữ, ngay cả những lực lượng hùng mạnh như đội hình Phalanx cũng khó mà đối đầu nổi. Vì loài voi có hình thể khổng lồ nên chỉ cần dẫm đạp càn qua là có thể phá vỡ bất kì đội hình hay thế trận tác chiến nào. Da voi cũng đủ dày để chống lại các loại cung tên, giáo mác nếu lực đâm không quá mạnh. Người Ấn Độ trước mỗi trận chiến thường cho voi uống rượu khiến nó trở nên hung bạo và đáng sợ hơn rất nhiều. Đối mặt với tượng binh thì hầu hết các đạo quân đều mất hết sĩ khí, tinh thần và nhanh chóng rơi vào tình trạng hoảng sợ.


image017-6db04.jpg
Từ thời cổ xưa ở Bắc Phi và Ấn Độ đã có tượng binh. Mọi người đều biết rằng vào thế kỷ III trước công nguyên, vị tướng kiệt xuất Hannibal ( được mệnh danh là cha đẻ của chiến thuật đánh trận) chỉ huy quân đội Carthage (một quốc gia ở Bắc Phi) đã đập tan những đạo quân La Mã nhờ sự trợ giúp của những con voi chiến. Ngoài ra, theo như truyền thuyết kể lại, Hannibal không cần cử quân trinh sát địch, bởi những chú voi cách xa hàng chục cây số đã ngửi được mùi của quân lính La Mã. Ấy là do người La Mã thường bỏ vào thức ăn của mình rất nhiều hành. Voi bắt mùi hành rất nhạy. Thế nhưng khi ở trên núi cao có tuyết rơi và thời tiết giá lạnh, những chú voi chiến của Hannibal đã chết.
image019-6db04.jpg
Ở Việt Nam, voi chiến đã thể hiện ưu thế khi đối đầu với kỵ binh Mông Cổ và những đạo quân khác. Vào thế kỉ 17, riêng chuồng voi ở kinh đô Thăng Long có trên 200 con, nếu tổng huy động có thể lên đến 2000 thớt voi trận cho một trận chiến. Đây là một lực lượng hùng mạnh và ghê gớm, có khả năng phá vỡ trận địa quân địch trên phạm vi rộng, gây kinh hoàng trong hàng ngũ địch. Trong những trận chiến của vị tướng vĩ đại Quang Trung, đại pháo đã được đặt trên lưng voi chiến và biến nó thành một chiếc xe tăng đúng nghĩa, điển hình là trận đánh thành Ngọc Hồi làm quân Mãn Thanh phải kinh hoàng khiếp đảm.Tượng binh không phải cánh quân chủ lực của Đại Việt nhưng thực tế cho thấy voi đã được huấn luyện và sử dụng chiến đấu ở nước ta ít nhất là từ thời Hai Bà Trưng ( khoảng năm 40 sau công nguyên).
image020-6db04.jpg
Hai Bà Trưng trên lưng chiến tượng
Ý nghĩa và chiến thuật của Kỵ binh



Kỵ binh có thể chia làm 2 loại chính : Trọng kỵ ( thiết kỵ binh – Heavy Cavalry ) và Khinh kỵ ( Light Cavalry )

- Trọng kỵ binh là lực lượng binh chủng được trang bị giáp nặng cho cả người và ngựa. Những bộ giáp này cực kì chắc chắn và có khả năng bảo vệ kị sĩ rất tốt cho dù là đối mặt với bộ binh hay cung thủ. Về sau các kị sĩ còn được trang bị thêm khiên để chống lại trường thương (pikemen – sinh ra để counter kỵ binh ) . Kỵ binh nặng đóng vai trò là tiền quân, tiên phong thường xung phong chọc thẳng vào trung quân địch với một đội hình rất quy củ. Với bộ giáp dày và nặng cộng thêm quán tính từ tốc độ chạy của ngựa, những cú húc kiểu này làm tan vỡ đội hình đối phương một cách mau chóng.


image021-6db04.jpg
Những hiệp sĩ thập tự chinh với cú Charge tê giác húc


Thời kỳ của các hiệp sĩ Thập tự chinh có chiến thuật dành cho các kỵ binh rất nổi tiếng: họ sử dụng giáo dài lao thẳng ( Charge ) vào đội hình quân địch, bẻ gẫy xương sống của các cánh quân một cách nhanh chóng. Những con ngựa có tốc độ cực nhanh hỗ trợ cho giáo dài có khi lên đến 5 mét xọc thẳng vào trung quân của địch rồi mau chóng tản ra 2 cánh chuẩn bị cho cuộc Charge tiếp theo. Trong khi đó đội hình kỵ binh phía sau tiếp tục tấn công vào đúng vị trí đó dần dần xé lẻ thế trận quân địch . Các tài liệu xưa ghi lại rằng những cuộc xung phong của những hiệp sĩ Thập tự chinh kiểu này là không thể ngăn chặn được.


image023-6db04.jpg
Thiết kỵ binh Mông Cổ và tư trang



Chiến thuật dành cho trọng kỵ binh cũng rất phong phú dựa trên đặc điểm là sự linh hoạt và mạnh mẽ . Ở phương Đông lại thịnh hành loại thiết kỵ khải mã ( Cataphract ) , họ sử dụng loại giáp xích ( Chainmail armour ) cho cả kị sĩ lẫn ngựa. Loại giáp này nhẹ hơn loại trọng giáp mà các kỵ sĩ Châu Âu mặc nên họ có thể sử dụng nhiều loại vũ khí một cách linh hoạt hơn, từ rìu chiến, đơn thủ kiếm, chùy và đặc biệt là cung nỏ. Từ đó hình thành nên lối những lối đánh cực kì đa dạng của kị binh Catapharact khiến cho người La Mã bó tay và khiếp sợ suốt một thời gian dài.


image025-6db04.jpg
Một Catapharact với giáp trụ chắc chắn cho cả ngựa


- Khinh kỵ binh: khinh kỵ là đội quân cưỡi ngựa nhỏ, chạy nhanh và dẻo dai. Kỵ sĩ được trang bị nhẹ với vũ khí chủ yếu là kiếm, gươm và khiên. Khinh kỵ đặc biệt thích hợp cho những chiến thuật mang tính lưu động, đánh chặn sườn, quấy rối, đánh úp,do thám, truy đuổi và rút lui trong khoảng khắc.


image026-6db04.jpg
Đạo khinh kỵ có cánh bất bại Winged Hussar của Balan
Quân đội Mông Cổ là một ví dụ điển hình cho lối đánh của khinh kỵ ( mặc dù họ cũng có rất nhiều trọng kỵ ). Sử sách ghi lại rằng: “ trăm quân kỵ tản ra có thể vây bọc vạn người, nghìn quân kỵ tản ra có thể dài đến trăm dặm. Khi thắng quân đến nhanh như từ trên trời rơi xuống, khi thua quân rút nhanh như chớp vậy “ . Tất cả đều nói lên sự linh hoạt đến đáng sợ của khinh kỵ Mông Cổ.


image028-6db04.jpg
Thế hồi mã cung ưa thích của kỵ binh Mông Cổ


Trong trận chiến ở Wahlstadt quân Mông Cổ đã làm cho người Châu Âu bối rối vì kẻ địch bỗng nhiên xuất hiện ở khắp nơi và chẳng có đội hình nào cụ thể. Họ di chuyển lung tung không có kèn trận hay reo hò như các trận chiến ở Châu Âu mà các mệnh lệnh được truyền đạt bằng quân kì. Thậm chí ngay cả khi trận chiến đã bắt đầu người Châu Âu cũng không thể nắm rõ quân số chính xác của đội quân Mông Cổ mình đang đối đầu.


image030-6db04.jpg
Hiệp sĩ Giéc manh vs kỵ binh Mông Cổ


Người Mông Cổ rất thành thạo trong nghệ thuật bao vây nhưng một sự thật là họ rất ngại đối đầu trực tiếp mà thường sử dụng cung tên khi đang trên lưng ngựa. Việc vừa phi ngựa với tốc độ cao vừa bắn tên hay xoay người bắn ngược chính xác vào kẻ thù đang truy đuổi là việc bất kì kỵ binh Mông Cổ nào cũng có thể làm được.

Vũ khí của các kỵ binh cũng rất đa dạng. Từ kiếm, cung, chùy chiến, rìu chiến, thương dài, đao dài đến các loại chùy xích …


image031-6db04.jpg

image033-6db04.jpg


image035-6db04.jpg


Phần tiếp theo sẽ nói về top 10 đạo kỵ binh mạnh nhất trong lịch sử thế giới. Vậy chiến thuật, phong cách hay lý tưởng chiến đấu là thứ đem lại sức mạnh vô địch cho họ. Hãy tìm lời giả ở phần sau.
 

[ẹc]

...
Staff member
Kỵ binh (từ Pháp cavalerie, xem. đứng ngả 'con ngựa') hoặc kỵ binhbinh sĩ hay chiến binh đã từng chiến đấu gắn trên lưng ngựa . Kỵ binh là lịch sử lâu đời nhất thứ ba (sau khi bộ binhchariotry ) và điện thoại di động hầu hết các vũ khí chiến đấu.Một người lính trong đội kỵ binh được biết đến bởi một số định như vậy như kỵ si tốt, cưỡi ngựa hoặc quân nhân.
Việc quy định về kỵ binh không thường được trao cho bất kỳ lực lượng quân sự được sử dụng các động vật khác , chẳng hạn như con lạc đà hoặc la. binh người chuyển trên lưng ngựa, nhưng đã bị gỡ bỏ để chiến đấu trên chân, đã được biết đến trong thế kỷ 18 và đầu 17 như dragon , một lớp học của bộ binh gắn kết mà sau này phát triển thành kỵ binh thích hợp trong khi vẫn giữ danh nghĩa lịch sử của họ.
Từ lần đầu tiên kỵ binh có lợi thế của việc tăng cường vận động, làm cho nó một
cụ mà nhân giá trị chiến đấu của ngay cả những lực lượng nhỏ nhất, cho phép họ dùng mưu lừa và tránh, bất ngờ và chế ngự, phải rút lui và thoát theo yêu cầu của thời điểm này. [1]
Một người đàn ông chiến đấu từ lưng ngựa cũng có những lợi thế chiều cao lớn hơn, tốc độ và khối lượng quán tính trên một đối thủ trên chân. Một yếu tố khác của con ngựa gắn chiến tranh là tác động tâm lý một người lính gắn kết có thể gây ra cho đối thủ.
Tính di động và giá trị gây sốc của kỵ binh được đánh giá cao và khai thác trong lực lượng vũ trang trong thời cổ đại và Trung, một số lực lượng chủ yếu là kỵ binh, đặc biệt là trong các xã hội du mục của Châu Á, đặc biệt là đội quân Mông Cổ. Ở châu Âu ngày càng trở nên kỵ binh thiết giáp (nặng), và cuối cùng trở thành nổi tiếng với những gắn kết các hiệp sĩ . Trong kỵ binh thế kỷ 17 ở châu Âu mất hầu hết các áo giáp của nó, không có hiệu quả chống lại súng hỏa mai và đại bác đã được đi vào sử dụng, và áo giáp giữa thế kỷ 19 đã chủ yếu còn được sử dụng, mặc dù một số trung đoàn giữ lại một dày nhỏ áo giáp mà được cung cấp bảo vệ chống lại giáo và lưỡi kiếm và một số bảo vệ chống lại bắn.
Trong khoảng thời gian giữa các cuộc chiến tranh thế giới , nhiều đơn vị kỵ binh đã được chuyển đổi thành cơ giới bộ binhbộ binh cơ giới hóacác đơn vị, hoặc cải cách như quân xe tăng. Tuy nhiên một số kỵ binh vẫn còn phục vụ trong chiến tranh thế giới thứ hai , đặc biệt là trong Hồng quân , đội Hoàng gia ÝQuân đội Ba Lan . Hầu hết các đơn vị kỵ binh được con ngựa gắn trong quân đội hiện đại phục vụ trong vai trò hoàn toàn nghi lễ, hoặc như gắn bộ binh trong địa hình khó khăn như núi hoặc các khu vực có nhiều rừng cây. Sử dụng hiện đại của thuật ngữ này nói đến các đơn vị chuyên môn được trang bị xe tăng ("kỵ binh") hoặc máy bay ("không khí kỵ binh").
 

[ẹc]

...
Staff member
Vai trò của kỵ binh

Trong nhiều quân đội hiện đại, các kỵ binh hạn vẫn thường được sử dụng để tham khảo cho các đơn vị mà là một tay chiến đấu của lực lượng vũ trang mà trong quá khứ đầy chiến đấu đất ngựa truyền qua truyền thống kỵ binh nhẹ vai trò. Chúng bao gồm trinh sát , giao tranh với các yếu tố trinh sát của đối phương để từ chối họ kiến thức về bố trí của quân đội, chuyển tiếp an ninh, trinh sát tấn công chiến đấu, sàng lọc thủ của lực lượng thân thiện trong phong trào ngược, rút lui , phục hồi lệnh và kiểm soát, lừa dối, chiến đấu bàn giao, thông qua dòng, cứu trợ tại chỗ, linkup, đột phá hoạt động, và đánh phá . Các cú sốc vai trò, truyền thống lấp đầy bởi kỵ binh nặng , thường được lấp đầy bởi các đơn vị với " bọc thép "chỉ định.
 

[ẹc]

...
Staff member
Lịch sử

Nguồn gốc

Trước khi đồ sắt , vai trò của kỵ binh trên chiến trường phần lớn được thực hiện bởi ánh sáng xe ngựa . Xe ngựa bắt nguồn từ Sintashta-Petrovka văn hóa trong khu vực Trung Á và lây lan bằng cách du mục hoặc bán du mục Ấn-Iran . [2] Các cỗ xe đã nhanh chóng được thông qua bởi các dân tộc giải quyết cả hai như là một công nghệ quân sự và một đối tượng của tình trạng nghi lễ, đặc biệt là các vị vua của Vương quốc mới của Ai Cập cũng như quân đội AssyriaBabylon tiền bản quyền.
Sức mạnh của tính di động cho các đơn vị gắn kết đã được công nhận sớm, nhưng đã được bù đắp bởi những khó khăn trong huy động lực lượng lớn và sự bất lực của con ngựa (sau đó chủ yếu là nhỏ) để mang áo giáp nặng. Kỹ thuật kỵ binh là một sự đổi mới của dân du mục cưỡi ngựa của Trung Á và Iran thảo nguyên và pastoralist bộ tộc như Ba Tư Parthiangười Sarmatia .
Các bức ảnh trên bên phải cho thấy Assyria kỵ binh từ phù điêu của 865-860 trước Công nguyên. Tại thời điểm này, những người đàn ông không có cựa , yên ngựa , vải lót yên , hoặc bàn đạp . Chiến đấu từ phía sau của một con ngựa là khó khăn hơn nhiều so với chỉ cưỡi. Kỵ binh đã hành động theo cặp, dây cương của gắn kết cung thủ được điều khiển bởi tay người hàng xóm của mình. Ngay cả ở thời gian đầu này, kỵ binh sử dụng thanh kiếm, khiên, và cung. Các tác phẩm điêu khắc có nghĩa hai loại kỵ binh, nhưng điều này có thể đơn giản hóa của nghệ sĩ. Sau hình ảnh của Assyria kỵ binh cho vải lót yên như yên ngựa nguyên thủy, cho phép mỗi cung thủ để kiểm soát con ngựa của mình.
Ngay từ năm 490 trước Công nguyên một giống ngựa lớn được nuôi ở vùng đồng bằng Nisaean trong truyền thông để thực hiện những người đàn ông với số lượng ngày càng tăng của áo giáp (Herodotus gia đình 7,40 và 9,20). Nhưng con ngựa lớn vẫn còn rất đặc biệt vào thời điểm này. Ngoại trừ một vài lần không có hiệu quả để phục hồi xe ngựa scythed , và tiếp tục sử dụng viễn đông, việc sử dụng xe cộ trong chiến đấu đã lỗi thời trong các quốc gia văn minh vào thời điểm của sự thất bại Ba Tư dưới bàn tay của Alexander Đại đế , nhưng xe ngựa vẫn được sử dụng cho các mục đích nghi lễ chẳng hạn như mang chung một chiến thắng trong chiến thắng La Mã , hoặc cho xe đua. Phía nam người Anh đã gặp Julius Caesar với xe ngựa trong55 và 54 trước Công nguyên , nhưng do thời gian của cuộc chinh phục La Mã của nước Anh thế kỷ một xe ngựa sau đã lỗi thời ngay tại Britannia
 

[ẹc]

...
Staff member
Hy Lạp cổ đại: thành bang, Thebes, Thessaly và Macedonia

220px-Amphora_Louvre_F12.jpg

magnify-clip.png
Khởi hành Warrior; một Athens chiếc vò hai quai ngày 550-540 trước Công nguyên.
Bài chi tiết: hippeisđồng kỵ binh
Trong thời gian cổ điển Hy Lạp kỳ kỵ binh là thường giới hạn ở những công dân có đủ khả năng đắt chiến tranh ngựa. Ba loại kỵ binh trở nên phổ biến: kỵ binh ánh sáng, có người đi, trang bị javelins, có thể quấy rối và cuộc giao tranh, kỵ binh nặng, người lính, sử dụng ống đốt, có khả năng đóng cửa với các đối thủ của họ, và cuối cùng những người có thiết bị cho phép họ chống lại một trong hai trên lưng ngựa hoặc đi bộ. Vai trò của kỵ binh đã tuy nhiên vẫn còn thứ đó của hoplite hoặc bộ binh hạng nặng người bao gồm sức mạnh chính của các khoản thu công dân của các quốc gia thành phố khác nhau.
Kỵ binh đóng một vai trò tương đối nhỏ trong Hy Lạp cổ đại thành bang , với các cuộc xung đột bởi đông đảo bộ binh bọc thép quyết định. Tuy nhiên,Thebes sản xuất Pelopidas , chỉ huy kỵ binh vĩ đại đầu tiên của mình, có chiến thuật và kỹ năng đã được hấp thụ bởi Phillip II của Macedonia khi Phillip là một khách mời-con tin ở Thebes. Thessaly được biết đến rộng rãi để sản xuất kị binh có thẩm quyền, và sau đó là những kinh nghiệm trong cuộc chiến tranh cả với và chống lại người Ba Tư dạy người Hy Lạp giá trị của kỵ binh trong giao tranh và theo đuổi. Các Athens tác giả và người línhXenophon đặc biệt ủng hộ việc thành lập một lực lượng kỵ binh nhỏ nhưng được đào tạo, đến cuối đời, ông đã viết nhiều sách hướng dẫn về cưỡi ngựa và các hoạt động kỵ binh.
Các Macedonia Anh ở phía bắc, mặt khác, phát triển một lực lượng kỵ binh mạnh lên đến đỉnh điểm trong hetairoi ( Companion kỵ binh ) của Philip IIvà Alexander Đại đế. Bên cạnh những kỵ binh nặng, quân đội Macedonia cũng được sử dụng kỵ binh nhẹ hơn gọi là prodromoi cho trinh sát và sàng lọc, cũng như đốt pike Macedonia và các loại binh hạng nhẹ . Ngoài ra còn có các Ippiko (hoặc "Horserider"), Hy Lạp "nặng" kỵ binh, trang bị Kontos (hoặc kỵ binh thương), và thanh kiếm. Những mặc áo giáp da hoặc thư cộng với một chiếc mũ bảo hiểm. Họ là trung bình chứ không phải là kỵ binh nặng, có nghĩa là họ đã phù hợp tốt hơn để được các tuyển trạch viên, skirmishers, và đuổi theo chứ không phải là máy bay chiến đấu ngoài mặt trận.Sự kết hợp của kỵ binh và bộ binh đã giúp phá vỡ các dòng kẻ thù và đã được sử dụng một cách hiệu quả để thống trị các đối thủ của Vương quốc Macedonia.
Hiệu quả của hệ thống hỗn hợp vũ khí này đã được chứng minh đáng kể nhất trong cuộc chinh phục của Alexander của Ba Tư , Bactria , và tây bắc Ấn Độ.
[ sửa ]​
Cộng hòa La Mã và đế quốc sớm


Bài chi tiết: La Mã kỵ binh
200px-K%C3%B6ln_Reitergrabmal.jpg

magnify-clip.png
Bia mộ của một quân nhân phụ La Mã từ Cologne, Đức. Nửa sau của thế kỷ 1
Kỵ binh vào đầu Cộng hòa La Mã vẫn là bảo tồn của những người giàu có lớp hạ cánh được gọi là Hiệp sĩ Paladin Loại -những người đàn ông có thể đủ khả năng chi phí của việc duy trì một con ngựa ngoài vũ khí và áo giáp nặng hơn so với các chung quân đoàn . Như lớp lớn để được nhiều hơn một tầng lớp xã hội thay vì một nhóm quân sự theo thuộc tính chức năng, người La Mã đã bắt đầu sử dụng Ý socii cho điền vào hàng ngũ của kỵ binh của họ. Tại cùng một thời điểm người La Mã bắt đầu tuyển dụng kỵ binh phụ trợ nước ngoài trong số Gauls , Iberians , và Numidians , cuối cùng được đánh giá cao như skirmishers gắn kết và trinh sát (xem kỵ binh người Numidia ). Julius Caesar mình được biết đến với sự ngưỡng mộ của ông hộ tống của ông Đức kỵ binh hỗn hợp, làm phát sinh các Equitates Cohortae . Hoàng đế đầu duy trì một ala của Batavian kỵ binh như vệ sĩ của họ cho đến khi đơn vị đã bị sa thải bởi Galba sau khi các cuộc nổi dậy Batavian .
Đối với hầu hết các phần, kỵ binh La Mã trong Cộng hòa hoạt động như một thuốc hỗ trợ cho bộ binh lính lê dương và chỉ được hình thành một phần năm lực lượng hiển thị. Điều này không có nghĩa là tiện ích của nó có thể được đánh giá thấp, mặc dù, như vai trò chiến lược của nó trong trinh sát, giao tranh, và nhiệm vụ là tiền đồn quan trọng đối với khả năng của người La Mã tiến hành các hoạt động trên một khoảng cách dài trong lãnh thổ thù địch hoặc không quen thuộc. Trong một số trường hợp nó cũng chứng tỏ khả năng của mình để tấn công một đòn chiến thuật quyết định chống lại một kẻ thù suy yếu hoặc không chuẩn bị, chẳng hạn như các khoản phí cuối cùng ở trận Aquilonia .
Sau khi đánh bại như trận Carrhae , người La Mã đã học được tầm quan trọng của các thành kỵ binh lớn từ Parthia . Họ sẽ bắt đầu tăng đáng kể cả số lượng và các tiêu chuẩn đào tạo của các kỵ binh trong sử dụng của họ, cũng như gần một ngàn năm trước người Iran đầu tiên để đạt được cao nguyên Iran buộc Assyria để cải cách tương tự. Tuy nhiên, họ sẽ tiếp tục phải dựa chủ yếu trên của bộ binh hạng nặng được hỗ trợ bởi kỵ binh phụ trợ.
200px-Roman_Cavalry_1.jpg

magnify-clip.png
Reenactor như một La Mã phụ kỵ si tốt.
[ sửa ]​
Cuối Đế chế La Mã và thời kỳ di cư


Trong quân đội vào cuối Đế chế La Mã , kỵ binh đóng một vai trò ngày càng quan trọng. Các Spatha , thanh kiếm cổ điển trong hầu hết thế kỷ 1 đã được thông qua như mô hình chuẩn cho lực lượng kỵ binh của Đế quốc.
Việc sử dụng phổ biến nhất của kỵ binh nặng tại thời điểm này đã được tìm thấy trong các lực lượng của Parthia và họ Iran Sassanid kế. Cả hai, nhưng đặc biệt là trước đây, đã nổi tiếng với các cataphract (hoàn toàn kỵ binh trang bị giáo) mặc dù phần lớn các lực lượng của họ bao gồm nhẹ hơn cung thủ ngựa . Phương Tây đầu tiên gặp kỵ binh này nặng đông trong Hy Lạp thời gian với các liên hệ sâu xa hơn trong tám thế kỷ của La Mã - Ba Tư chiến tranh. Lúc đầu tính di động của Parthia rất xấu hổ những người La Mã, có gần-để bộ binh đã chứng minh không thể để phù hợp với tốc độ của người Parthia.Tuy nhiên, sau đó người La Mã có thể thích ứng thành công áo giáp nặng như vậy và chiến thuật kỵ binh bằng cách tạo ra các đơn vị riêng của họ về cataphracts và clibanarii. [3]
Sự suy giảm của cơ sở hạ tầng La Mã đã làm cho nó khó khăn hơn để ra sân lực lượng bộ binh lớn, và trong thời gian 4 và 5 thế kỷ kỵ binh bắt đầu có vai trò chủ đạo hơn trên chiến trường châu Âu, cũng một phần có thể thực hiện bởi sự xuất hiện của mới, giống lớn hơn ngựa. Sự thay thế của La Mãyên bởi các biến thể trên mô hình Scythia, với đập túi bụi và một miếng, [4] cũng là một yếu tố quan trọng như là việc áp dụng các bàn đạp và sự gia tăng đồng thời trong sự ổn định chỗ ngồi của người lái. Cataphracts bọc thép bắt đầu được triển khai ở Đông Âu và gần Đông , sau khi tiền lệ được thiết lập bởi Ba Tư lực lượng, là lực lượng tấn công chủ của quân đội trái ngược với vai trò trước đây của kỵ binh như trinh sát, cướp, và outflankers.
Cuối truyền thống kỵ binh La Mã và giới quý tộc gắn kết của những kẻ xâm lược Đức cả hai đóng góp vào sự phát triển của thời trung cổ kỵ binh hiệp sĩ.
[ sửa ]​
Ả Rập


Bài viết chính: bảo vệ điện thoại di động
175px-Eug%C3%A8ne_Ferdinand_Victor_Delacroix_025.jpg

magnify-clip.png
Một Ma-rốc với mình ngựa Ả Rập dọc theo bờ biển Barbary .
220px-Ikhwan.jpg

magnify-clip.png
Ả lạc đà kỵ binh
Sớm tổ chức lực lượng gắn Ả Rập dưới Rashidun Caliphate bao gồm một kỵ ánh sáng được trang bị thươngthanh kiếm . Vai trò chính của nó là để tấn công hai cánh của đối phương và phía sau. Những kỵ binh tương đối nhẹ bọc thép hình thành các yếu tố hiệu quả nhất của quân đội Hồi giáo trong giai đoạn sau của cuộc chinh phục Hồi giáo của vùng Cận Đông. Sử dụng tốt nhất của điều này nhẹ trang bị kỵ binh di chuyển nhanh đã được tiết lộ tạitrận Yarmouk (636 AD), trong đó Khalid ibn Walid , biết các kỹ năng của kỵ binh của mình, sử dụng chúng để lật ngược tình thế ở tất cả các trường quan trọng của trận chiến với khả năng của mình tham gia, buông tha, sau đó quay trở lại và tấn công trở lại từ cánh hoặc phía sau. Một trung đoàn kỵ binh mạnh mẽ được hình thành bởi Khalid ibn Walid trong đó bao gồm các cựu chiến binh của chiến dịch ở Iraq và Syria. Sử gia Hồi giáo đầu đã đặt cho nó tênMutaharrik tulai'a (متحرك طليعة), hoặc bảo vệ điện thoại di động . Điều này đã được sử dụng như một bảo vệ trước và một lực lượng xung kích mạnh mẽ để định tuyến quân đội đối với tính di động của nó lớn hơn mà cung cấp cho nó một bàn tay trên khi vận động chống lại bất kỳ Byzantine quân đội. Với lực lượng này nổi bật điện thoại di động, cuộc chinh phục của Syria đã được thực hiện dễ dàng. [5]
220px-Mamluke.jpg

magnify-clip.png
Một Mamluk kỵ si tốt
Các trận Talas vào năm 751 sau Công nguyên là một cuộc xung đột giữa Ả Rập Abbasid Caliphate và Trung Quốc triều đại nhà Đường về kiểm soát Trung Á .Bộ binh Trung Quốc đã được chuyển bằng cách Ả Rập kỵ binh gần bờ sông Talas.
Sau Mamluks được huấn luyện như những người lính kỵ binh. Mamluks được làm theo mệnh lệnh của al-furusiyya, [6] quy tắc ứng xử trong đó có giá trị như lòng can đảm và quảng đại nhưng cũng học thuyết chiến thuật kỵ binh, cưỡi ngựa, bắn cung và điều trị các vết thương.
[ sửa ]​
Châu Á


Bài chi tiết: ngựa bắn cung
[ sửa ]​
Trung Á


Hung Nô , Tujue , Avars , Kipchaks , Mông Cổ , Don Cossacks và nhiều người gốc Thổ Nhĩ Kỳ cũng là những ví dụ của các nhóm ngựa gắn trên đó quản lý để đạt được những thành công đáng kể trong các cuộc xung đột quân sự với xã hội nông nghiệp và đô thị ổn định, do tính di động chiến lược và chiến thuật của mình. Như các nước châu Âu đã bắt đầu mang đặc tính của quan liêu nhà nước quốc gia hỗ trợ quân đội thường trực chuyên nghiệp, tuyển dụng của các chiến binh gắn kết đã được thực hiện để có các vai trò chiến lược của các trinh sát và kẻ cướp. Các ví dụ tốt nhất được biết đến của việc tiếp tục gắn phụ của bộ lạc là các trung đoàn kỵ binh Cossack của nước Nga Sa Hoàng . Ở Đông Âu, Nga, và điền vào các thảo nguyên , kỵ binh còn quan trọng nhiều thời gian hơn và chiếm ưu thế trong cảnh chiến tranh cho đến đầu thế kỷ 17 và thậm chí cao hơn, như tính di động chiến lược của kỵ binh là rất quan trọng cho bán du mục pastoralist sống mà nhiều người thảo nguyên nền văn hóa lãnh đạo. [7]
Người Tây Tạng cũng đã có một truyền thống của kỵ binh chiến tranh, trong nhiều cuộc đụng độ quân sự sớm với Trung Quốc triều đại nhà Đường(618-907 AD), bao gồm cả chiến dịch Hoàng đế Thái Tông chống lại Tufan trong 638.
[ sửa ]​
Đông Á


220px-DiezAlbumsArmedRiders_I.jpg

magnify-clip.png
Các Mông Cổ kỵ binh theo đuổi kẻ thù của họ.
220px-Sakaotosi.jpg

magnify-clip.png
Trong trận Ichi-no-Tani , kỵ binh Nhật Bản di chuyển xuống một ngọn núi phía.
220px-Emperor_Taizongs_horses_by_Yan_Liben.jpg

magnify-clip.png
Một bức phù trợ của một người lính và ngựa với yên xe và bàn đạp , từ ngôi mộ của Trung Quốc Hoàng đế Thái Tông của nhà Đường (r. 626-649), c. 650
Thêm đông, lịch sử quân sự của Trung Quốc , đặc biệt là phía bắc Trung Quốc , đã tổ chức một truyền thống lâu đời của trao đổi quân sự căng thẳng giữa người Hán Trung Quốc các lực lượng bộ binh của đế chế triều đại định cư và gắn du mục hoặc "man rợ" của miền Bắc. Các lịch sử hải quân của Trung Quốcđược tập trung hơn về phía nam, nơi núi, sông và hồ lớn đòi hỏi phải việc làm của một lớn và cũng giữ kínhải quân .
Trong 307 trước Công nguyên, vua Wuling của Zhao , người cai trị Trung Quốc cổ đại trước đây Nhà nước Jin lãnh thổ, ra lệnh chỉ huy quân sự và quân đội của mình để áp dụng quần của dân du mục cũng như thực hành mẫu 'du mục của gắn bắn cung để trau dồi kỵ binh mới của họ kỹ năng. [8] Ngay sau đó các chiến thuật kỵ binh làm việc cho Nhà nước Triệu buộc kẻ thù của họ trong những khác Chiến Quốc áp dụng các kỹ thuật tương tự để gắn kết bất kỳ cuộc tấn công hiệu quả chống lại chuyển động nhanh chóng của họ trên chiến trường. [9]
Việc áp dụng các kỵ binh tập trung ở Trung Quốc cũng đã phá vỡ truyền thống của xe ngựa cưỡi tầng lớp quý tộc Trung Quốc trong trận chiến, vốn đã được sử dụng từ xưa triều đại nhà Thương (khoảng 1600 TCN-1050 TCN). [10] Đến thời điểm này bộ binh lớn của Trung Quốc quân đội dựa trên 100.000 đến 200.000 quân tại đã được củng cố với vài trăm ngàn gắn kỵ binh hỗ trợ hoặc như là một lực lượng xung kích có hiệu quả.[9] Thiết bị cầm tay súng ngắn và kích hoạt nỏ được phát minh ở Trung Quốc trong thế kỷ 4 TCN, [11] nó đã được viết bởi các nhà Tống học giả Zeng Gongliang, Ding Du, và Yang Weide trong cuốn sách của họ Ngộ Tĩnh Zongyao (1044 AD) mà đông đảo tên lửa của Crossbowmen là phòng thủ hiệu quả nhất chống lại tội kỵ binh của đối phương. [12]
220px-The_Qianlong_Emperor_in_Ceremonial_Armour_on_Horseback.jpg

magnify-clip.png
Các Hoàng đế Càn Long trong áo giáp nghi lễ trên lưng ngựa, vẽ bởi Giuseppe Castiglione , ngày 1739 hoặc 1758.
Trong nhiều trường hợp người Trung Quốc nghiên cứu chiến thuật kỵ binh du mục và áp dụng những bài học trong việc tạo ra lực lượng kỵ binh mạnh riêng của họ, trong khi những người khác chỉ đơn giản là họ tuyển dụng các kỵ binh bộ lạc bán buôn vào quân đội của họ, và trong nhưng trường hợp khác đế chế du canh du cư đã chứng tỏ mong muốn tranh thủ bộ binh và kỹ thuật Trung Quốc , như trong trường hợp củađế quốc Mông Cổ và một phần sinicized của nó, là triều đại nhà Nguyên (1279-1368). Trung Quốc sớm nhận ra trong triều đại nhà Hán (202 TCN-220 AD) mà họ cảm thấy bất lợi trong thiếu số lượng ngựa các dân tộc du mục phía bắc thu hết trong quân đội của họ. Vũ Đế của Han (r. 141 TCN-87 TCN) đã đi đến chiến tranh với Đại Uyên vì lý do này, kể từ khi Đại Uyên được hording một số lượng lớn cao, mạnh mẽ, ngựa lai Trung Á trong Hellenized - Hy Lạp khu vực của Fergana (thành lập một chút trước đó của Alexander Đại đế ). Mặc dù trải qua một số thất bại sớm trong chiến dịch, chiến tranh Vũ Đế từ năm 104 TCN đến 102 trước Công nguyên đã thành công trong việc thu thập các cống được đánh giá cao của ngựa từ Fergana.
Chiến thuật kỵ binh ở Trung Quốc đã được tăng cường bởi sự phát minh ra yên xe gắn bàn đạp ít nhất thế kỷ thứ 4, như mô tả đáng tin cậy lâu đời nhất của một tay đua với bàn đạp kết hợp đã được tìm thấy trong một nhà Jin ngôi mộ của các năm 322 AD. [13] [ 14] [15] Các phát minh Trung Quốc của cổ ngựa của thế kỷ thứ 5 cũng là một cải tiến lớn từ khai thác vú, cho phép con ngựa để chuyên chở khối lượng lớn hơn mà không có gánh nặng trên cấu trúc xương của nó. [16] [17]
Cuộc chiến tranh con ngựa của Hàn Quốc lần đầu tiên được bắt đầu trong thời gian cổ xưa của Hàn Quốc vương quốc Cổ Triều Tiên . Ít nhất là từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, có ảnh hưởng của Bắc du mục dân tộc và Yemaek dân tộc trên chiến tranh Hàn Quốc. Bởi khoảng các thế kỷ 1 trước Công nguyên, các vương quốc cổ Phù Dư cũng đã gắn kết chiến binh. [18] Các kỵ binh của Goguryeo , một trong Tam Quốc Triều Tiên , được gọi làGaemamusa (개마 무사,铠马武士). Vua Gwanggaeto the Great thường thám hiểm dẫn vào Baekje , minh Gaya , Buyeo , Sau đó Yan và chống lại Nhật Bản xâm lược với kỵ binh của mình. [19]
Trong thế kỷ 12, Nữ Chân bộ lạc bắt đầu vi phạm biên giới Cao Ly-Nữ Chân, và cuối cùng xâm lược Cao Ly Hàn Quốc. Sau khi trải qua các cuộc xâm lược của các Nữ Chân, Hàn Quốc chung Yun Gwan nhận ra rằng Goryeo thiếu đơn vị kỵ binh hiệu quả. Ông tổ chức quân đội Goryeo thành một đội quân chuyên nghiệp mà sẽ chứa các đơn vị kỵ binh tốt và được đào tạo tốt. Trong năm 1107, các Nữ Chân cuối cùng đã bị đánh bại, và đầu hàng Yun Gwan. Để đánh dấu sự chiến thắng, Tổng Yun xây dựng chín pháo đài ở phía đông bắc của biên giới Cao Ly-Nữ Chân (동북 9 성, 东北 九城).
Các Nhật Bản cổ xưa của thời kỳ Kofun cũng thông qua kỵ binh ngựa và văn hóa của thế kỷ thứ 5. Sự xuất hiện của các samurai tầng lớp quý tộc đã dẫn đến sự phát triển của thiết giáp ngựa bắn cung, tự phát triển thành tính phí lancer kỵ binh như vũ khí thuốc súng trả lại cung lỗi thời.
[ sửa ]​
Nam Á


Trong tiểu lục địa Ấn Độ, kỵ binh đóng một vai trò quan trọng từ các triều đại Gupta (320-600) kỳ trở đi. Ấn Độ cũng có những bằng chứng lâu đời nhất cho sự ra đời của ngón chân kiềng . [ cần dẫn nguồn ]
Văn học Ấn Độ có rất nhiều tài liệu tham khảo cho các lực lượng kỵ binh của Trung Á du mục ngựa như Sakas , Kambojas , Yavanas , PahlavasParadas . Nhiều Puranic văn bản đề cập đến một cuộc xung đột ở Ấn Độ cổ đại (thế kỷ 16 trước Công nguyên) [20] trong đó các lực lượng kỵ binh của năm quốc gia, gọi là năm lũ (pañca.ganan) hoặc Kśatriya(Kśatriya ganah), tấn công và chiếm được ngai vàng của Ayudhya bởi dethroning của Vệ Đà vua Bahu [21]
220px-Kurukshetra.jpg

magnify-clip.png
Bản thảo minh họa của trận Kurukshetra
220px-ChandraguptaIIOnHorse.jpg

magnify-clip.png
Đồng tiền của Chandragupta II hoặc Vikramaditya, một trong những hoàng đế mạnh mẽ nhất của đế chế Gupta trong thời gian được gọi là Golden Age của Ấn Độ
220px-Rajput_warrior_on_horseback%2C_with_caption_in_Kayathi_and_Nagari..jpg

magnify-clip.png
Rajput chiến binh trên lưng ngựa, với chú thích trong Kayathi và nagari.
Các Mahabharata , Ramayana , nhiều Puranas và một số nguồn tin nước ngoài đúng điệu chứng thực rằng Kamboja kỵ binh được thường xuyên trưng dụng trong cuộc chiến tranh cổ đại. VR Ramachandra Dikshitar viết: "Cả hai Puranas và sử thi đồng ý rằng những con ngựa của vùng Sindhu và Kamboja là của giống chó tốt nhất, và rằng các dịch vụ của Kambojas như lính kỵ binh đã được trưng dụng trong cuộc chiến tranh cổ đại". [22] JAOS viết : "con ngựa nổi tiếng nhất được biết đến hoặc từ Sindhu hoặc Kamboja, sau này (tức là Kamboja), Ấn Độ sử thi Mahabharata nói trong những tốt nhất kỵ binh ". [23]
Mahabharata (950 BC c) [24] nói về kỵ binh quý của Kambojas, Sakas, Yavanas và Tusharas , tất cả những người đã tham gia vào chiến tranh Kurukshetra dưới sự chỉ huy tối cao của Kamboja cai trị Sudakshin Kamboj . [25] Mahabharata và Vishnudharmotari Purana đặc biệt là phong cách của Kambojas, Yavansa, Gandharas vv như "Ashva.yuddha.kushalah" (kị binh chuyên gia). [26] Trong cuộc chiến tranh Mahabharata, các kỵ binh Kamboja cùng với đó của Sakas, Yavanas được cho là đã được gia nhập bởi nhà kuru vua Duryodhana của Hastinapura . [27]
Herodotus (484 c BC-425 BC c) chứng minh rằng các Gandarian lính đánh thuê (tức là Gandharans / Kambojans của Gandari Strapy của Achaemenids) từ strapy 20 của Achaemenids được tuyển dụng trong quân đội của hoàng đế Xerxes I (486-465 trước Công nguyên), trong đó ông đã lãnh đạo chống lại Hellas . [28] Tương tự như vậy, những người đàn ông của núi đất từ phía bắc Kabol -sông tương đương với thời trung cổ Kohistan (Pakistan), con số trong quân đội của Darius III với Alexander tại Arbela với một đội kỵ binh và mười lăm con voi. [ 29] Điều này rõ ràng đề cập đến Kamboja kỵ binh phía nam của Hindukush.
Các Kambojas đã nổi tiếng với con ngựa của họ, cũng như kỵ binh-men (asva-yuddha-Kushalah). [30] Trên tài khoản của vị trí tối cao của họ trong con ngựa (Ashva) văn hóa, họ cũng thường được gọi là Ashvakas , tức là "kỵ binh " [31] và đất đai của họ được gọi là "Trang chủ của Ngựa". [32] Họ là những AssakenoiAspasioi của cổ điển những bài viết, và AshvakayanasAshvayanas trong Panini 's Ashtadhyayi . Các Assakenoi đã phải đối mặt với Alexander với 30.000 bộ binh, 20.000 kỵ binh và 30 voi chiến. [33] Các học giả đã xác định được Assakenoi và Aspasioi tộc của KunarSwatthung lũng như một phần của Kambojas . [34] Những bộ tộc khỏe mạnh đã được cung cấp sức đề kháng ngoan cố Alexander (326 trước Công nguyên c) trong chiến dịch thứ hai của Kabul, Kunar và thung lũng Swat và thậm chí đã trích lời khen ngợi của các sử gia của Alexander. Những đồng bào vùng cao, được xem như "parvatiya Ayudhajivinah" trong Panini của Astadhyayi, [35] đã phản loạn, kị binh rất độc lập và tự do yêu người không bao giờ dễ dàng mang lại cho bất kỳ chúa. [36]
Các tiếng Phạn bộ phim Mudra-rakashas bởi Visakha DuttaJaina việc Parisishtaparvan tham khảo Chandragupta 's (320 C BC-298 BC c) liên minh với Hy Mã Lạp Sơn vua Parvataka. Các Himalaya liên minh đã Chandragupta một đội quân hỗn hợp ghê gớm tạo thành các lực lượng kỵ binh của Shakas, Yavanas, Kambojas, Kiratas, Parasikas và Bahlikas như chứng thực Mudra-Rakashas (Mudra-Rakshasa 2). [37] Những đám đã giúpChandragupta Maurya đánh bại người cai trị của Ma Kiệt Đà và đặt Vhandragupta trên ngai vàng, do đó đặt nền móng cho triều đại Mauryan ở miền Bắc Ấn Độ.
Kỵ binh của Hunas và Kambojas cũng được chứng thực trong các Raghu Vamsa bài thơ sử thi tiếng Phạn nhà thơ Kalidasa . [38] Raghu của Kalidasa được cho là Chandragupta II (Vikaramaditya) (375-413/15 AD), của nổi tiếng triều đại Gupta .
Cho đến tận cuối thời kỳ Trung cổ, các Kamboja kỵ binh cũng đã được hình thành một phần của lực lượng vũ trang Gurjara-Pratihara từ 8 đến thế kỷ thứ 10 sau công nguyên. Họ đến Bengal với Pratiharas khi sau này đã chinh phục một phần của tỉnh. [39] [40] [41] [42] [43]
Kambojas cổ xưa đã được thành lập vào Tăng thân quân sự và Srenis (Tổng công ty) để quản lý các vấn đề chính trị và quân sự của họ, nhưArthashastra của Kautiliya cũng như Mahabharata amply chứng thực đối với chúng tôi. Họ chứng thực được sống như Ayuddha-jivi hoặc Shastr-opajivis (Nation-trong-tay), trong đó cũng có nghĩa là Kamboja kỵ binh được cung cấp của nó quân sự các dịch vụ cho các quốc gia khác. Có rất nhiều tài liệu tham khảo để Kambojas đã được trưng dụng như kỵ binh lính trong cuộc chiến tranh cổ đại bằng bên ngoài quốc gia .
220px-Taniec_tatarski.jpg

magnify-clip.png
Crimean Tatar người lính chiến đấu với những người lính của Ba Lan-Litva . Châu Âu thảo nguyên biên giới ở trong tình trạng chiến tranh bán kiên cố cho đến thế kỷ thứ 18.
[ sửa ]​
Châu Âu thời Trung cổ


Xem thêm: Ngựa trong thời Trung cổ
220px-Bayeux_Tapestry_scene51_Battle_of_Hastings_Norman_knights_and_archers.jpg

magnify-clip.png
Ngựa gắn Norman thu phí trong Bayeux Tapestry , thế kỷ 11.
Mặc dù kỵ binh La Mã không có bàn đạp, yên xe sừng của họ cho phép sự kết hợp của một chỗ ngồi công ty với sự linh hoạt đáng kể. Nhưng sự ra đời của bao quanh yên trong thời Trung Cổ cung cấp hiệu quả cao hơn trong chiến đấu sốc gắn kết và phát minh quan trọng của xương bàn đạp được kích hoạt một mảng rộng các cuộc tấn công sẽ được chuyển giao từ phía sau của một con ngựa. Như một trọng lượng lớn hơn của người đàn ông và áo giáp có thể được hỗ trợ trong yên xe, xác suất được gỡ bỏ trong chiến đấu đã được giảm đáng kể.
Đặc biệt, một khoản phí với các thương diễn đạt dưới nách sẽ không còn biến thành cực vòm , điều này cuối cùng đã dẫn đến sự gia tăng rất lớn trong tác động của phí. Cuối cùng nhưng không kém, sự ra đời của spurs cho phép kiểm soát tốt hơn sự gắn kết trong "phí hiệp sĩ" tại phi nước đại.Ở Tây Âu đã xuất hiện những gì được coi là "cuối cùng" kỵ binh nặng , các hiệp sĩ . Các hiệp sĩ và các trang bị tương tự như gắn nam-at-tay tính trong hình thành gần gũi, trao đổi linh hoạt cho một lớn, không thể cưỡng lại phí đầu tiên.
220px-BritLibAddMS35166ApocalypseUnkFolio3SealBlackHorse.jpg

magnify-clip.png
Một mô tả thế kỷ 13 của một con ngựa cưỡi. Lưu ý trùng với hiện đại Paso Fino .
220px-Husitsky_bojovy_vuz_replika.jpg

magnify-clip.png
Một toa xe chiến tranh Hussite: nó cho phép nông dân để đánh bại hiệp sĩ
Những người đàn ông-tại-cánh tay gắn kết một cách nhanh chóng trở thành một lực lượng quan trọng trong chiến thuật Tây Âu. Học thuyết quân sự thời Trung cổ sử dụng chúng như một phần của một lực lượng hỗn hợp vũ khí cùng với các loại quân chân, tuy nhiên sử gia thời trung cổ có xu hướng chú ý không đáng có cho các hiệp sĩ tại các chi phí của các xếp hạng và tập tin, dẫn sinh viên đầu tiên của lịch sử quân sự cho rằng mà kỵ binh nặng này là động lực duy nhất là quan trọng trên chiến trường thời trung cổ châu Âu, mà không phải là trường hợp.
Đông đảo Anh Longbowmen chiến thắng kỵ binh Pháp tại Crécy , PoitiersAgincourt , trong khi tại Gisors (1188), Bannockburn (1314), và Laupen(1339), bộ binh của họ để chứng minh invulnerability phí kỵ binh miễn là họ đã tổ chức hình thành của chúng. Một khi Thụy Sĩ phát triển của hình vuông pike cho cuộc tấn công cũng như sử dụng phòng thủ, bộ binh bắt đầu trở thành cánh tay chính. Học thuyết mới tích cực này đã làm cho chiến thắng của Thụy Sĩ trên một loạt các đối thủ, và kẻ thù của họ phát hiện ra rằng cách duy nhất đáng tin cậy để đánh bại họ là bằng cách sử dụng một thậm chí còn toàn diện hơn cánh tay kết hợp giáo lý, bằng chứng là trong các trận Marignano . Sự ra đời của vũ khí tên lửa đòi hỏi kỹ năng thấp hơn nỏ, chẳng hạn như bắn nỏpháo tay , cũng giúp loại bỏ các tập trung phần nào từ giới tinh hoa kỵ binh để khối lượng của bộ binh được trang bị với giá rẻ dễ dàng để tìm hiểu vũ khí. Các loại vũ khí tên lửa đã được sử dụng rất thành công trong các cuộc chiến tranh Hussite , kết hợp với Wagenburgchiến thuật.
Này tăng dần trong sự thống trị của bộ binh dẫn đến việc áp dụng các chiến thuật đã bị gỡ bỏ. Từ thời gian hiệp sĩ sớm nhất và gắn kết những người đàn ông-tại-cánh tay đã thường xuyên bị gỡ bỏ để xử lý kẻ thù mà họ không thể vượt qua trên lưng ngựa, chẳng hạn như trong các trận chiến của Dyle (891) và các trận Bremule (1119), nhưng sau khi 1350s xu hướng này ngày càng trở nên được đánh dấu bằng chiến đấu người đàn ông-tại-cánh tay xuống ngựa như bộ binh siêu nặng với hai tay kiếmpoleaxes . Trong mọi trường hợp, chiến tranh trong thời Trung cổ có xu hướng bị thống trị bởi các cuộc tấn công và vây hãm hơn là trận chói tai, và gắn kết những người đàn ông-tại-cánh tay hiếm khi có sự lựa chọn nào khác hơn tháo khi phải đối mặt với triển vọng tấn công một vị trí tăng cường.
[ sửa ]​
 

[ẹc]

...
Staff member
Châu Âu phục hưng

220px-Retable_de_l%27Agneau_mystique_%288%29.jpg

magnify-clip.png
Phong tước hiệp sĩ kỵ binh và quý tộc, vẽ bởi Jan van Eyck (c. 1390-1441).
Trớ trêu thay, sự gia tăng của bộ binh trong những năm đầu thế kỷ 16 trùng hợp với "thời đại vàng" của kỵ binh nặng, một quân đội Pháp hoặc Tây Ban Nha vào đầu thế kỷ này có thể có đến một nửa số lượng của nó tạo thành các loại khác nhau của kỵ binh nhẹ và nặng , trong khi trong quân đội thời trung cổ trước và sau thế kỷ 17 tỷ lệ của kỵ binh là hiếm khi hơn một phần tư.
Hiệp sĩ phần lớn bị mất chức năng quân sự của mình và trở thành quan hệ chặt chẽ hơn đến uy tín kinh tế xã hội trong một xã hội ngày càng tư bản phương Tây. Với sự gia tăng của khoan và đào tạo bộ binh, được gắn kết những người đàn ông-tại-cánh tay, bây giờ đôi khi được gọi là hiến binh và thường là một phần của quân đội đứng mình, thông qua vai trò tương tự như trong thời Hy Lạp cổ đại, đó là cung cấp một đòn quyết định khi trận chiến đã tham gia, hoặc bằng cách thu phí đối phương trong cánh hoặc tấn công chỉ huy trưởng của họ.
Từ 1550s trở đi, việc sử dụng vũ khí thuốc súng củng cố sự thống trị của chiến bộ binh và bắt đầu cho phép quân đội khối lượng thực sự phát triển.Điều này liên quan chặt chẽ đến sự gia tăng kích thước của quân đội trong thời kỳ hiện đại đầu, kị binh bọc thép bị đắt tiền để nâng cao và duy trì và phải mất nhiều năm để thay thế một kỵ sĩ có tay nghề hoặc một con ngựa được đào tạo, trong khi arquebusiers và sau đó người lính ngự lâm có thể được đào tạo và giữ trong lĩnh vực này với chi phí thấp hơn nhiều, và được dễ dàng hơn nhiều để thay thế.
Tây Ban Nha tercio và hình thành sau xuống hạng kỵ binh cho một vai trò hỗ trợ. Các khẩu súng lục đã được phát triển đặc biệt để cố gắng mang lại kỵ binh trở lại xung đột, cùng với thủ đoạn như sự quầng ngựa . Các sự quầng ngựa là không đặc biệt thành công, tuy nhiên, và các chi phí (cho dù với thanh kiếm, súng lục, hoặc thương) vẫn là phương thức chính của việc làm cho nhiều loại kỵ binh châu Âu, mặc dù đến thời điểm này nó được chuyển giao trong hình sâu sắc hơn nhiều và với hơn kỷ luật hơn trước. Các demi-LANCERS và thanh kiếm và khẩu súng lục-bọc thép reiters nằm trong số các loại kỵ binh có thời hoàng kim là trong thế kỷ 16 và 17, như đối với các kỵ binh cánh Ba Lan , một lực lượng kỵ binh nặng mà đạt được thành công lớn đối với Thụy Điển , Nga, và Thổ Nhĩ Kỳ .
[ sửa ]​
thế kỷ 18 châu Âu và Napoleon Wars


220px-Simon-eylau.jpg

magnify-clip.png
Kỵ binh tại Eylau , vẽ bởi Simon Fort .
Kỵ binh giữ vai trò quan trọng trong thời đại của qui chuẩn và tiêu chuẩn hóa trên quân đội châu Âu. Đầu tiên và quan trọng nhất họ vẫn là lựa chọn chính cho đối đầu với kỵ binh của đối phương. Tấn công một lực lượng bộ binh liên tục đầu trên thường dẫn đến thất bại, nhưng tuyến đã mở rộng hình bộ binh là dễ bị tổn thương cánh hoặc phía sau các cuộc tấn công. Kỵ binh rất quan trọng tại Blenheim (1704), Rossbach (1757), EylauFriedland (1807), còn lại đáng kể trong suốt cuộc chiến tranh Napoleon .
Các kỵ binh vĩ đại nhất của lịch sử hiện đại là tại 1807 trận Eylau , khi toàn bộ 11.000-mạnh Pháp kỵ binh dự trữ, do Maréchal Murat, đưa ra một khoản phí rất lớn trên và thông qua các dòng bộ binh Nga. Tuy nhiên, vào năm 1815 tại trận chiến Waterloo , lặp đi lặp lại phí lên đến 9.000 kỵ binh Pháp thất bại trong việc phá vỡ đường dây của bộ binh Anh và Đức, những người đã hình thành hình vuông . [44]
Bộ binh đông đảo đã gây tử vong cho kỵ binh, nhưng cung cấp một mục tiêu tuyệt vời cho pháo binh . Sau khi bắn phá đã rối loạn sự hình thành bộ binh, kỵ binh đã có thể thất bại thảm hại và theo đuổi những người lính chân rải rác. Mãi cho đến vũ khí cá nhân đã đạt được độ chính xác và tốc độ cải tiến của lửa kỵ binh đã được giảm bớt trong vai trò này là tốt. Thậm chí sau đó kỵ binh ánh sáng vẫn là một công cụ không thể thiếu cho trinh sát, sàng lọc chuyển động của quân đội, và quấy rối đường cung cấp của đối phương cho đến khi máy bay quân sự thay thế họ trong vai trò này trong giai đoạn đầu của Thế chiến I.
[ sửa ]​
thế kỷ 19


220px-Batalla_de_Carabobo.JPG

magnify-clip.png
Phí của kỵ binh của Venezuela hạng nhất tại các trận Carabobo .
Đến thế kỷ 19, châu Âu kỵ binh rơi vào bốn loại chính:
  • Cuirassiers , kỵ binh nặng
  • Dragon , ban đầu được gắn bộ binh nhưng sau coi là kỵ binh trung bình
  • Kỵ binh , kỵ binh ánh sáng
  • Lancer hoặc Uhlans , kỵ binh ánh sáng được trang bị ống đốt
Có những khác biệt kỵ binh cho các quốc gia cá nhân sau đây: Pháp có Chasseurs à đứng ngả; Đức có Jäger zu Pferd; BavariaChevaulegers và Nga đã Cossacks. Anh, từ giữa thế kỷ 18, đã có Dragoon nhẹ như kỵ binh ánh sáng và Dragoon, Dragoon đội và Household Cavalry là kỵ binh nặng.Chỉ sau khi kết thúc các cuộc chiến tranh của Napoleon đã được Household Cavalry, trang bị cuirasses, và một số trung đoàn khác được chuyển đổi sang LANCERS. Trong quân đội Hoa Kỳ kỵ binh hầu như luôn luôn dragon. Các quân Đế quốc Nhật Bản đã có kỵ binh mặc đồng phục của mình nhưkỵ binh , nhưng họ đã chiến đấu như dragon.
220px-Union_cavalry_charge_culpepper.jpg

magnify-clip.png
Đoàn Kỵ chụp Confederate súng tạiCulpepper .
Trong các cuộc chiến tranh Crimean , các phí của Lữ đoàn ánh sángThin Red Line tại trận Balaclava cho thấy tính dễ tổn thương của kỵ binh, khi triển khai mà không hỗ trợ hiệu quả. [45]
Vào đầu những năm chiến Hoa Kỳ Hoa Kỳ Quân đội thường xuyên gắn súng trường, dragoon, và hai trung đoàn kỵ binh hiện tại đã được tổ chức lại và đổi tên thành trung đoàn kỵ binh, trong đó có sáu. Hơn một trăm trung đoàn kỵ binh liên bang và tiểu bang khác đã được tổ chức, nhưng bộ binh đóng một vai trò lớn hơn trong nhiều trận đánh do số lượng lớn hơn, chi phí thấp hơn cho mỗi khẩu súng trường ra sân, và tuyển dụng dễ dàng hơn nhiều. Tuy nhiên, kỵ binh nhìn thấy một vai trò như một phần của lực lượng kiểm tra và tìm kiếm thức ăn và trinh sát. Các giai đoạn sau của cuộc chiến tranh đã thấy quân đội liên bang phát triển một lực lượng kỵ binh thực sự hiệu quả chiến đấu như trinh sát , cướp, và, với súng trường lặp đi lặp lại, như gắn bộ binh .
Gửi chiến, như các đội quân tình nguyện giải tán, các trung đoàn kỵ binh quân đội chính quy tăng về số lượng từ sáu đến mười, trong đó có 7 Kỵ Binh đoàn Mỹ của Little Bighorn nổi tiếng, và người Mỹ gốc Phi Mỹ Trung Đoàn 9 Kỵ BinhTrung Đoàn Kỵ Binh thứ 10 của Hoa Kỳ . Các đơn vị này, cùng với những người khác (cả kỵ binh và bộ binh ), tập thể được gọi là người lính Buffalo . Các trung đoàn, mà hiếm khi có mặt trên sân như các tổ chức hoàn chỉnh, phục vụ suốt cả cuộc chiến tranh người Mỹ thông qua việc đóng cửa biên giới trong những năm 1890.
Trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ , ở trận Mars-la-Tour vào năm 1870, một lữ đoàn kỵ binh Phổ quyết đập tan trung tâm của chiến tuyến Pháp, sau khi khéo léo che giấu cách tiếp cận của họ. Sự kiện này được biết đến như chết đi xe Von Bredow sau khi các lữ đoàn chỉ huy Adalbert von Bredow ;. nó sẽ được sử dụng trong những thập kỷ sau khi cho rằng phí kỵ binh đông đảo vẫn có một vị trí trên chiến trường hiện đại [46]
[ sửa ]​
bành trướng đế quốc thế kỷ 19


Kỵ binh tìm thấy thành công mới trong hoạt động của triều đình ( chiến tranh không thường xuyên ), nơi mà vũ khí hiện đại không có và di chuyển tàu binh-pháo chậm hoặc công sự cố định thường không có hiệu quả chống lại quân nổi dậy bản địa (trừ khi người dân địa phương cung cấp một cuộc chiến trên cơ sở bình đẳng, như tại Tel- el-Kebir , Omdurman , vv.) Kỵ binh " cột bay "tỏ ra hiệu quả, hoặc ít nhất là hiệu quả chi phí, trong nhiều chiến dịch, mặc dù một chỉ huy sắc sảo địa phương (như Samori ở miền tây Châu Phi, ShamilCaucasus , hoặc bất kỳ tốt hơn Boer chỉ huy) có thể lật ngược tình thế và sử dụng tính di động cao hơn của kỵ binh của họ để bù đắp sự thiếu tương đối của họ về hỏa lực so với các lực lượng châu Âu.
Các quân đội Anh Ấn Độ duy trì khoảng bốn mươi trung đoàn kỵ binh, officered người Anh và người lái của Ấn Độ sowars (kị binh). Khai thác huyền thoại của chi nhánh này còn tồn trong văn học và phim sớm. Trong số các trung đoàn nổi tiếng trong dòng truyền thừa vạn quân hiện đại Ấn Độ và Pakistan là:
220px-21lancers.JPG

magnify-clip.png
Điện tích của Lancer 21 tại Omdurman
  • Vệ sĩ của Tổng Thống đốc (nay là vệ sĩ của Tổng thống )
  • Ngựa Skinner (nay của Ấn Độ 1 Horse (Ngựa Skinner) )
  • Lancer Gardner (nay của Ấn Độ Lancer 2 (ngựa Gardner) )
  • Ngựa Hodson (ngày nay của Ấn Độ ngựa thứ 3 (Hodson của) ) của Bengal Lancer nổi tiếng
  • 6 Bengal Kỵ (sau hợp nhất với 7 Hariana Lancer để tạo thành Kỵ riêng 18 Vua Edward ) tại kỵ binh 18 của quân đội Ấn Độ
  • Ngựa Probyn của (bây giờ Pakistan)
  • Hoàng Deccan Horse (nay là Ấn Độ là The Horse Deccan )
  • Poona Ngựa (tại Ấn Độ là Các Poona ngựa )
  • Scinde Ngựa (tại Ấn Độ là The Horse Scinde )
  • Hướng dẫn riêng của kỵ binh của nữ hoàng (nay là phân chia giữa Pakistan và Ấn Độ).
Một số các hình vẫn còn hoạt động, mặc dù họ đang hình thành bọc thép, ví dụ Hướng dẫn kỵ binh ở Pakistan. [47]
Quân đội Pháp duy trì lực lượng kỵ binh đáng kể trong Algeria và Morocco từ năm 1830 cho đến khi chiến tranh thế giới thứ hai. Phần lớn địa hình ven biển Địa Trung Hải là phù hợp cho hành động gắn kết và có một nền văn hóa lâu đời của cưỡi ngựa trong số các cư dân Ả Rập và Berber. Các lực lượng Pháp bao gồm Spahis , Chasseurs d 'Afrique , Ngoại Legion kỵ binh và gắnGoumiers . [48]
[ sửa ]​
Chiến tranh thế giới


[ sửa ]​
phát triển trước chiến tranh


220px-Italian_cavalry_drill.jpg

magnify-clip.png
Sĩ quan kỵ binh Ý thực hành cưỡi ngựa của họ vào năm 1904 bên ngoài Rome.
Vào đầu thế kỷ 20, tất cả các quân đội vẫn duy trì được lực lượng kỵ binh đáng kể, mặc dù có tranh cãi về việc liệu vai trò của họ nên trở lại với bộ binh gắn kết (chức năng dragoon lịch sử). Theo kinh nghiệm của chiến tranh Nam Phi của 1899-1902 (nơi gắn Boer kích công dân chiến đấu trên chân từ bìa chứng minh ưu thế kỵ binh thường xuyên) của quân đội Anh rút ống đốt cho tất cả nhưng mục đích nghi lễ và đặt hướng tập trung vào đào tạo cho hành động tháo dỡ.
Trong năm 1908 tuy nhiên trong sáu trung đoàn lancer Anh trong sự tồn tại tiếp tục sử dụng vũ khí này ấn tượng nhưng đã lỗi thời cho hoạt động dịch vụ. Năm 1882, quân đội hoàng gia Nga đã chuyển đổi tất cả các dòng khinh kỵ binh và lancer trung đoàn của mình cho dragon, với trọng tâm là đào tạo binh gắn kết. Năm 1910, các trung đoàn trở lại là vai trò lịch sử của mình, chỉ định và đồng phục.
[ sửa ]​
kỵ binh trong giai đoạn mở đầu


220px-KuK_Kavallerie_1898.jpg

magnify-clip.png
Áo-Hung kỵ binh, năm 1898.
220px-Kavallerie_Wk_I.jpg

magnify-clip.png
Kỵ si tốt Đức trong tháng 9 năm 1914,Đức Tây Nam Châu Phi .
Trong tháng 8 năm 1914 tất cả các chiến binh quân đội vẫn giữ được số lượng đáng kể của kỵ binh và bản chất di động trong những trận đánh mở trên cả hai phía Đôngmặt trận Tây cung cấp một số trường hợp các hành động kỵ binh truyền thống, mặc dù ở quy mô nhỏ và phân tán hơn so với các cuộc chiến trước đó. Các Kỵ binh Hoàng gia Đức, trong khi như đầy màu sắc và truyền thống như bất kỳ xuất hiện trong thời bình, đã thông qua một thực tế rơi trở lại vào sự hỗ trợ bộ binh khi bất kỳ sự chống đối đáng kể đã gặp phải. Các chiến thuật thận trọng làm dấy lên chế nhạo đối thủ giữa Pháp và Nga bảo thủ hơn họ nhưng đã chứng minh phù hợp với bản chất mới của chiến tranh. Một nỗ lực duy nhất của quân đội Đức, vào ngày 12 tháng 8 năm 1914, để sử dụng sáu trung đoàn kỵ binh đông đảo để cắt đứt các lĩnh vực quân đội Bỉ từ Antwerp chìm khi họ đã bị đẩy trở lại trong rối loạn do cháy súng trường. [49] Một khi các tuyến ổn định, một sự kết hợp của dây kẽm gai, súng máy và súng lửa nhanh chóng được chứng minh gây tử vong cho quân đội gắn trên ngựa.
[ sửa ]​
kỵ binh ở châu Âu 1915-1918


Đối với phần còn lại của cuộc chiến tranh trên mặt trận phía kỵ binh phương Tây hầu như không có vai trò để chơi. Quân đội Anh và Pháp đã bị gỡ bỏ nhiều trung đoàn kỵ binh của họ và sử dụng chúng trong bộ binh và các vai trò khác: các đội Cuộc sống ví dụ như dành những tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh như một súng máy quân đoàn, và ánh sáng Ngựa Úc từng là bộ binh nhẹ trong Gallipoli chiến dịch. Trong tháng 9 năm 1914 kỵ binh bao gồm 9.28% trong tổng số nhân lực lực lượng viễn chinh Anh tại Pháp theo tháng 7 năm 1918 tỷ lệ này đã giảm xuống còn 1,65%. [50] Quân đội Đức đã bị gỡ bỏ gần như tất cả kỵ binh của họ ở phương Tây.
220px-Bundesarchiv_Bild_183-R42025%2C_Warschau%2C_Einmarsch_deutscher_Kavallerie.jpg

magnify-clip.png
Đức Uhlans sau khi chụp của Warsaw, tháng 8 năm 1915
Một số kỵ binh được giữ lại khi quân đội gắn phía sau các dòng trong dự đoán của một sự thâm nhập của các chiến hào chống lại nó dường như sẽ không bao giờ đến. Tanks , được giới thiệu trên Mặt trận phía Tây của Anh trong tháng 9 năm 1916, có khả năng đạt được đột phá như vậy nhưng không có phạm vi đáng tin cậy để khai thác chúng. Trong sử dụng chính đầu tiên của họ tại trận Cambrai (1917) , kế hoạch đã được cho một bộ phận kỵ binh đi theo sau xe tăng, tuy nhiên họ đã không thể vượt qua một con kênh bởi vì một chiếc xe tăng đã bị phá vỡ cây cầu duy nhất. [51] Đó là không cho đến khi quân đội Đức đã bị buộc phải rút lui trong trăm ngày tấn công năm 1918, kỵ binh mà lại có thể hoạt động trong vai trò dự định của họ. Có tính phí thành công của người Anh 7 Dragoon đội vào ngày cuối cùng của cuộc chiến. [52]
Trong không gian rộng lớn hơn của Mặt trận phía Đông là một hình thức chất lỏng hơn của chiến tranh tiếp tục và vẫn còn là một sử dụng cho quân đội gắn kết. Một số hành động trên phạm vi rộng đã được chiến đấu, một lần nữa chủ yếu là trong những tháng đầu của cuộc chiến. [53] Tuy nhiên, ngay cả ở đây giá trị của kỵ binh được đánh giá quá cao và duy trì hình gắn kết lớn ở phía trước của quân đội Nga đã gây căng thẳng lớn trên hệ thống đường sắt, để chút lợi thế chiến lược. [54]
[ sửa ]​
kỵ binh và bộ binh gắn ở Trung Đông


Ở Trung Đông, trong khi các vận động Sinai và Palestine gắn kết lực lượng (Anh, Ấn Độ, Ottoman, Úc, Ả Rập và New Zealand) giữ một vai trò chiến lược quan trọng cả bộ binh và kỵ binh như gắn kết.
Trong Ai Cập New Zealand Mounted súng trường và Úc Ngựa ánh sáng của Anzac Mounted Phòng điều hành như gắn bộ binh, lái xe lực lượng Đức và Ottoman trở lại từ Romani để MagdhabaRafa và ra khỏi Ai Cập Sinai bán đảo vào năm 1916.
Sau khi bế tắc trên đường Gaza-Beersheba giữa tháng ba và tháng mười năm 1917, Beersheba đã được bắt của Úc Được đặt Phòng 4 Lữ đoàn ngựa Light 's. Phí gắn kết của họ đã thành công sau khi một cuộc tấn công phối hợp của bộ binh Anh và tên gọi chung nhưng tiểu địa chủ kỵ binh và Úc và New Zealand nhẹ ngựa và gắn kết súng trường lữ đoàn. Một loạt các cuộc tấn công phối hợp của những người Ai Cập viễn chinh quân bộ binh và quân đội gắn kết cũng thành công ở trận Mughar Ridge , trong đó các sư đoàn bộ binh Anh và sa mạc Mounted Quân đoàn lái xe hai quân đội Ottoman trở lại dòng Jaffa-Jerusalem. Bộ binh với chủ yếu là kỵ binh xuống ngựa và gắn bộ binh chiến đấu trong Hills Judean để cuối cùng gần như bao vây Jerusalem đã chiếm ngay sau đó.
Trong thời gian tạm dừng trong các hoạt động cần thiết cho việc tấn công mùa xuân năm 1918 tại mặt trận bộ binh doanh phương Tây và gắn kết các cuộc tấn công bộ binh tới AmmanEs muối dẫn đến tĩnh tâm trở lại thung lũng Jordan mà tiếp tục được chiếm bởi bộ phận gắn kết vào mùa hè năm 1918.
Ban Mounted Úc được trang bị thanh kiếm và vào tháng Chín, sau khi thành công vi phạm của dòng Ottoman trên bờ biển Địa Trung Hải của Đế quốc Anh binh XXI quân đoàn sau các cuộc tấn công kỵ binh của Sư đoàn Kỵ binh thứ 4 , Sư đoàn Kỵ binh thứ 5Úc Được đặt Phòng mà gần như bao quanh hai quân đội Ottoman ở vùng đồi Judean buộc rút lui . Trong khi đó quân Chaytor của bộ binh và bộ binh gắn kết trong Anzac Mounted Ban tổ chức thung lũng Jordan , bao gồm cánh phải để sau này tiến về phía đông để nắm bắt Es Salt và Amman và là một nửa quân đội Ottoman thứ ba. Một theo đuổi tiếp theo, theo Phòng Kỵ 4Phòng Mounted Úc tiếp theo là Phòng Kỵ 5 đến Damascus . Xe bọc thép và 5 Kỵ LANCERS Phòng đang tiếp tục theo đuổi các Ottoman đơn vị phía Bắc Aleppo khi đình chiến của Mudros đã được ký kết bởi Đế chế Ottoman. [55]
[ sửa ]​
Sau Thế chiến I


Sự kết hợp giữa bảo thủ quân sự trong gần như toàn bộ quân đội và những khó khăn tài chính sau chiến tranh ngăn chặn những bài học 1914-1918 được hành động ngay lập tức. Có một giảm chung trong số các trung đoàn kỵ binh trong quân đội phương Tây Anh, Pháp, Ý và khác nhưng nó vẫn còn tranh cãi với niềm tin (ví dụ như trong các phiên bản 1922 của Encyclopædia Britannica ) đã cài đặt quân đội đã có một vai trò quan trọng trong chiến tranh tương lai. Những năm 1920 chứng kiến ​​một giai đoạn tạm thời trong thời gian đó kỵ binh vẫn là một yếu tố tự hào và đáng chú ý của tất cả các quân đội lớn, mặc dù ít hơn nhiều so với trước năm 1914.
Kỵ binh đã được sử dụng rộng rãi trong các cuộc nội chiến NgaChiến tranh Xô-Ba Lan . Cuộc chiến kỵ binh lớn cuối cùng là trận Komarów vào năm 1920, giữa Ba Lan và những người Bolshevik Nga. Chiến tranh thuộc địa ở Ma-rốc, Syria, Trung Đông và Biên giới Tây Bắc của Ấn Độ cung cấp một số cơ hội để gắn kết hành động chống lại kẻ thù thiếu vũ khí tiên tiến.
220px-Lietuvos_kavalerija.Lithuanian_cavalry_.jpg

magnify-clip.png
Lithuania LANCERS đào tạo trong những năm 1930
Quân đội sau chiến tranh Đức ( Reichsheer ) được phép một tỷ lệ lớn kỵ binh (trung đoàn 18 hay 16,4% tổng số nhân lực) theo các điều kiện của Hiệp ước Versailles . Các Kỵ binh Hoa Kỳ bị bỏ rơi lưỡi kiếm của nó vào năm 1934 và bắt đầu việc chuyển đổi trung đoàn horsed để kỵ binh cơ giới, bắt đầu với đoàn thứ nhất của kỵ binh trong tháng Giêng năm 1933.
Trong quân đội Anh , tất cả các trung đoàn kỵ binh được cơ giới từ năm 1929 đến năm 1941, xác định lại vai trò của mình từ con ngựa để xe bọc thép để tạo thành Hoàng Quân đoàn thiết giáp cùng với đoàn xe tăng Hoàng gia .
Các ba mươi chín trung đoàn của quân đội Ấn Độ đã được giảm xuống còn hai mươi mốt như là kết quả của một loạt các amalgamations ngay sau Chiến tranh Thế giới I. Việc thành lập mới vẫn không thay đổi cho đến năm 1936 khi ba trung đoàn đã được đổi tên là đơn vị đào tạo thường xuyên, với sáu, vẫn còn gắn kết, trung đoàn liên quan đến chúng. Năm 1938, quá trình cơ chế bắt đầu với sự chuyển đổi của một lữ đoàn kỵ binh đầy đủ (hai trung đoàn Ấn Độ và một người Anh) đến xe bọc thép và các đơn vị xe tăng. Vào cuối năm 1940 tất cả các kỵ binh Ấn Độ đã được cơ giới hóa, nhận xe tăng hạng nhẹ, xe bọc thép, xe tải 15cwt. Trung đoàn horsed cuối cùng của quân đội Ấn Độ (trừ các vệ sĩ và một số Tòa nhà Viceregal Ấn Độ Hoa Lực lượng trung đoàn) là Lancer riêng 19 King George trong đó có gắn kết cuộc diễu hành cuối cùng của nó ở Rawalpindi vào 28 tháng 10 năm 1939. Đơn vị này vẫn còn tồn tại (mặc dù trong quân đội Pakistan) với một TOE giáp.
Trong năm 1930, quân đội Pháp đã thử nghiệm với tích hợp gắn kết và cơ đơn vị kỵ binh vào đội hình lớn hơn. Dragoon trung đoàn đã được chuyển đổi sang bộ binh cơ giới (xe tải và xe máy), và cuirassiers cho các đơn vị thiết giáp, trong khi kỵ binh ánh sáng (Chasseurs một 'Cheval, Hussars và Spahis) vẫn phi đội saber như gắn kết. Lý thuyết là các lực lượng hỗn hợp bao gồm các đơn vị khác nhau có thể sử dụng những thế mạnh của mỗi theo hoàn cảnh. Trong thực tế gắn kết quân đội đã chứng minh không thể theo kịp với tốc độ di chuyển các đơn vị cơ giới hơn bất kỳ khoảng cách.
[ sửa ]​
Chiến tranh thế giới II kỵ binh


Trong khi hầu hết quân đội vẫn duy trì các đơn vị kỵ binh ở sự bùng nổ của Thế chiến II vào năm 1939, hành động gắn kết quan trọng được phần lớn giới hạn trong chiến dịch Ba Lan, Balkan và Liên Xô.
[ sửa ]​
Ba Lan


Một huyền thoại phổ biến là kỵ binh Ba Lan trang bị ống đốt sạc xe tăng Đức trong chiến dịch 1939 tháng chín. Điều này xuất phát từ báo cáo sai của một cuộc đụng độ duy nhất trên 01 tháng chín gần Krojanty, khi hai phi đội của Lancer 18 Ba Lan trang bị lưỡi kiếm phân tán binh Đức trước khi bị bắt trong mở bởi chiếc xe thiết giáp Đức. [56] Hai ví dụ minh họa cho việc huyền thoại phát triển. Đầu tiên, bởi vì xe cơ giới bị thiếu hụt, người Ba Lan dùng ngựa để kéo vũ khí chống tăng vào vị trí. [57] Thứ hai, đã có một vài sự cố khi Ba Lan kỵ binh đã bị mắc kẹt bởi xe tăng Đức, và cố gắng để chiến đấu miễn phí. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là quân đội Ba Lan đã chọn để tấn công xe tăng với đội kỵ binh ngựa. [58] Sau đó, trên mặt trận phía Đông, Hồng quân đã triển khai các đơn vị kỵ binh có hiệu quả chống lại quân Đức. [59] (Xem thêm kỵ binh Ba Lan .)
220px-Bundesarchiv_Bild_101I-054-1525-26%2C_Frankreich%2C_Kavallerie_am_Ausgang_eines_Dorfes.jpg

magnify-clip.png
Một tuần tra kỵ binh Đức tháng 5 năm 1940, trong trận Pháp .
Một thuật ngữ chính xác hơn sẽ được "gắn binh" thay vì "kỵ binh", như con ngựa đã được sử dụng chủ yếu như một phương tiện giao thông vận tải, mà họ rất phù hợp trong bối cảnh các điều kiện đường xá rất kém trong trước chiến tranh Ba Lan. Huyền thoại khác mô tả kỵ binh Ba Lan như được trang bị cả lưỡi kiếm và giáo; ống đốt được sử dụng cho các mục đích nghi lễ thời bình chỉ và các loại vũ khí chính của kỵ si tốt Ba Lan trong năm 1939 là một khẩu súng trường. Thiết bị cá nhân không bao gồm một thanh gươm, có lẽ vì truyền thống cũng như thành lập, nhưng trong trường hợp của một chiến đấu cận chiến vũ khí phụ này có lẽ sẽ hiệu quả hơn một khẩu súng và lưỡi lê. Hơn nữa, các kỵ binh Ba Lan để lữ đoàn chiến đấu của năm 1939 bao gồm, ngoài những người lính gắn kết bản thân, súng ánh sáng và nặng máy (bánh), súng chống xe tăng, mô hình 35 , vũ khí chống máy bay, pháo binh như Bofors 37 mm súng chống tăng hoặc ánh sáng và trinh sát xe tăng, vv kỵ binh cuối cùng, so với kỵ binh phí lẫn nhau ở châu Âu diễn ra tại Ba Lan trong trận Krasnobrod , khi các đơn vị kỵ binh Ba Lan và Đức đụng độ với nhau.
Các kỵ binh cổ điển cuối của cuộc chiến là thực hiện trên 01 tháng 3 năm 1945 trong trận Schoenfeld bởi "Warsaw" Lữ đoàn kỵ binh độc lập 1. Bộ binh và xe tăng đã được sử dụng để ít ảnh hưởng ngược với vị trí của Đức, cả hai đều lúng túng trong các vùng đất ngập nước mở chỉ bị thống trị bởi bộ binh và lửa chống tăng từ các công sự của Đức trên độ dốc về phía trước của Hill 157, nhìn ra vùng đất ngập nước. Đức đã không đưa kỵ binh vào xem xét khi củng cố vị trí của mình, kết hợp với các "Warsaw" s nhanh chóng tấn công, tràn ngập các khẩu súng chống tăng Đức và hợp nhất vào một cuộc tấn công vào các làng bản thân, bây giờ được hỗ trợ bởi bộ binh và xe tăng.
[ sửa ]​
Hy Lạp


Cuộc xâm lược Ý của Hy Lạp trong tháng 10 năm 1940 đã thấy kỵ binh gắn kết sử dụng hiệu quả bởi các hậu vệ Hy Lạp dọc theo biên giới miền núi với Albania. Ba trung đoàn kỵ binh Hy Lạp (hai gắn trên và một phần cơ giới) đóng một vai trò quan trọng trong việc đánh bại Italia trong địa hình khó khăn này. [60]
220px-Cavalleria_sovietica.jpg

magnify-clip.png
Kỵ binh của Liên Xô vào mùa đông năm 1942-1943
[ sửa ]​
Liên Xô


Bởi các giai đoạn cuối cùng của chiến tranh chỉ có Liên Xô vẫn Fielding đơn vị gắn với số lượng đáng kể, một số trong kết hợp các đơn vị cơ giới và ngựa. Ưu điểm của phương pháp này là trong khai thác gắn bộ binh có thể bắt kịp với xe tăng tiến. Các yếu tố khác lợi cho việc duy trì lực lượng gắn kết bao gồm chất lượng cao của Nga Cossacks và đội kỵ binh ngựa khác, và sự thiếu tương đối của đường phù hợp cho các loại xe có bánh xe ở nhiều nơi trên mặt trận phía Đông. Một yếu tố nữa là khả năng hậu cần cần thiết để hỗ trợ lực lượng cơ giới rất lớn vượt quá mức cần thiết cho quân đội gắn kết.
[ sửa ]​
Ý


Sự gắn phí saber cuối cùng bởi kỵ binh Ý xảy ra vào ngày 24 Tháng Tám 1942 tại Isbuscenski (Nga), khi một phi đội của "Savoia Kỵ Binh đoàn" trung đoàn buộc tội "Trung đoàn bộ binh 812 Siberia". Phần còn lại của trung đoàn, cùng với Lancer Novara thực hiện một cuộc tấn công đã bị gỡ bỏ trong một hành động mà kết thúc với sự rút lui của người Nga sau khi tổn thất nặng nề trên cả hai bên. [61] Hành động kỵ binh Ý thức diễn ra vào ngày 17 tháng 10 năm 1942 trong Pola ( Croatia) bởi một phi đội "Alexandria Kỵ binh đoàn" chống lại một nhóm lớn của Nam Tư du kích.
[ sửa ]​
khác Axis


Rumani, Hungary và kỵ binh Ý được tẩu tán, giải tán sau sự rút lui của các lực lượng trục từ Nga. [62] Đức vẫn duy trì một số gắn trên (trộn lẫn với xe đạp) SS và các đơn vị Cossack cho đến những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh.
[ sửa ]​
Phần Lan


Phần Lan sử dụng quân đội gắn kết với các lực lượng của Nga có hiệu quả trong địa hình rừng trong chiến tranh mùa đông. Các đơn vị kỵ binh cuối cùng Phần Lan không giải tán cho đến năm 1947.
[ sửa ]​
Hoa Kỳ


Con ngựa cuối cùng hành động kỵ binh của quân đội Mỹ đã chiến đấu trong Thế chiến II: a) của Kỵ Binh đoàn 26 (PS) trong chiến tranh thế giới II-một trung đoàn gắn nhỏ của Hướng đạo sinh Philippines mà chiến đấu với Nhật Bản trong thời gian rút lui xuống bán đảo Bataan, cho đến khi nó đã bị phá hủy một cách hiệu quả vào tháng giêng năm 1942; và b) trên bắt giữ con ngựa Đức bởi phần trinh sát gắn kết của 10 Mountain Division Mỹ trong việc theo đuổi một mũi nhọn của quân đội Đức trên thung lũng Po ở Ý vào tháng Tư năm 1945. [63] Các horsed Mỹ cuối cùng kỵ binh (các Sư đoàn Kỵ binh thứ hai ) đã được tháo gỡ tháng 3 năm 1944.
[ sửa ]​
Đế quốc Anh


Tất cả quân đội trung đoàn kỵ binh Anh đã được cơ giới hóa kể từ 01 Tháng Ba 1942 khi Nữ hoàng riêng Yorkshire Dragoon ( tên gọi chung nhưng tiểu địa chủ ) đã được chuyển đổi sang một vai trò cơ giới, sau dịch vụ gắn với các Vichy Pháp ở Syria năm trước. Các kỵ binh cuối cùng của lực lượng đế quốc Anh xảy ra vào ngày 21 tháng 3 năm 1942 khi tuần tra 60 mạnh mẽ của Mặt trận quân Miến Điện gặp bộ binh Nhật Bản gần Toungoo sân bay ở trung tâm Miến Điện . Các Sikh sowars của Lực lượng kỵ binh biên giới, dẫn đầu bởi đại tá Arthur Sandeman của Trung ương Ấn Độ Ngựa (riêng ngựa 21 King George V) , tính theo phong cách cũ với lưỡi kiếm và hầu hết đã bị giết.
[ sửa ]​
Sau chiến tranh thế giới II cho đến ngày nay


Các quân đội Liên Xô giữ lại đơn vị kỵ binh ngựa cho đến khi năm 1955, và ngay cả ở sự tan rã của Liên Xô vào năm 1991, đã có một con ngựa độc lập gắn kỵ binh đội trong Kyrgyzstan . [64]
Trong khi "kỵ binh" đơn vị hiện đại nhất có một số kết nối lịch sử với quân đội trước đây được cài đặt này không phải là luôn luôn như vậy. Lực lượng Phòng vệ Ailen hiện đại (IDF) bao gồm một "Kỵ binh đoàn" trang bị Panhard xe bọc thép và Scorpion theo dõi xe trinh sát chiến đấu . IDF đã không bao giờ có đội kỵ binh ngựa từ khi thành lập vào năm 1922 (trừ một hộ tống nhỏ gắn trên được rút ra từ Quân đoàn pháo binh khi cần thiết cho những dịp lễ). Tuy nhiên, sự thần bí của các kỵ binh là như vậy mà tên đã được giới thiệu cho những gì luôn luôn là một lực lượng cơ giới.
Một số cuộc đụng độ vào cuối thế kỷ 21 và đầu 20 du kích chiến tranh liên quan đến quân đội gắn kết, đặc biệt là máy bay chiến đấu chống lại đảng phái hoặc du kích trong khu vực có cơ sở hạ tầng giao thông kém. Các đơn vị này không được sử dụng như kỵ binh mà là gắn bộ binh. Ví dụ xảy ra ở Afghanistan, Bồ Đào Nha Châu PhiRhodesia . Quân đội Pháp sử dụng hiện có phi đội gắn kết của Spahis đến một mức độ hạn chế cho công việc tuần tra trong chiến tranh Algeria (1954-1962) và quân đội Thụy Sĩ duy trì gắn dragoon trung đoàn cho các mục đích chiến đấu cho đến năm 1973. Có báo cáo về quân đội Trung Quốc được gắn trong hành động trong cuộc đụng độ biên giới với Việt Nam trong những năm 1970 giữa / cuối. Các quân đội Bồ Đào Nha sử dụng ngựa gắn kỵ binh với một số thành công trong các cuộc chiến tranh giành độc lập ở Angola và Mozambique trong năm 1960 và 1970. Trong thời gian 1964-1979 Rhodesian Bush Chiến tranh cácquân đội Rhodesian tạo ra một đơn vị bộ binh gắn ưu tú được gọi là hướng đạo sinh Grey để chống lại hành động độc đáo chống lại lực lượng nổi dậy của Robert MugabeJoshua Nkomo .Con ngựa gắn bộ binh của Hướng đạo sinh có hiệu quả và báo cáo lo ngại bởi đối thủ của họ trong lực lượng nổi dậy ở châu Phi. Trong năm 1978 để trình bày chiến Afghanistan thời gian đã có nhiều trường hợp của con ngựa gắn kết chiến đấu.
Nam và Trung quân đội Mỹ duy trì gắn kỵ binh trong thời gian dài hơn so với châu Âu, châu Á hay Bắc Mỹ. Quân đội Mexico bao gồm một số trung đoàn kỵ binh ngựa gắn muộn hơn vào giữa những năm 1990 và quân đội Chile có năm trung đoàn như vậy vào năm 1983 khi quân đội miền núi gắn kết (xem "lực lượng vũ trang của Mỹ Latinh" Jane Adrian J. tiếng Anh).
Một số trung đoàn thiết giáp trong quân đội Anh giữ lại các chỉ định lịch sử của Hussars, Dragoon, Dragoon đội hoặc Lancer. Chỉ Household Cavalry phi đội duy trì trong nhiệm vụ nghi lễ ở London được gắn kết.
Kỵ binh hoặc gắn trên đơn vị lực lượng hiến binh tiếp tục được duy trì hoàn toàn hoặc chủ yếu mục đích nghi lễ của Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Ý, Đan Mạch, Thụy Điển, Hà Lan, Chile, Bồ Đào Nha, Ma-rốc, Nepal, Nigeria, Venezuela, Brazil, Peru, Paraguay, Ba Lan, Argentina, Senegal, Jordan, lực lượng vũ trang Pakistan, Ấn Độ, Tây Ban Nha và Bulgaria. Quân đội của Liên bang Nga gần đây đã giới thiệu lại một phi đội gắn nghi lễ mặc đồng phục lịch sử.
Một số bọc thép đơn vị hiện đại quân đội Hoa Kỳ giữ lại chỉ định " kỵ binh thiết giáp ". Hoa Kỳ cũng có " không khí kỵ binh "đơn vị được trang bị máy bay trực thăng . Ngựa Kỵ tách rời của quân đội Hoa Kỳ của Đoàn 1 Kỵ Binh được tạo thành từ các binh sĩ tại ngũ, vẫn hoạt động như một đơn vị hoạt động, được đào tạo để gần đúng các loại vũ khí, công cụ, thiết bị và kỹ thuật được sử dụng bởi Mỹ Kỵ trong những năm 1880. [65] [66] Ngoài ra, "Parsons Mounted Kỵ là một đơn vị đào tạo cán bộ quân dự trữ mà là một phần của Đoàn học viênTexas A & M University .
Các quân đội Pháp vẫn còn có trung đoàn với các chỉ định lịch sử của Cuirassiers , Hussars , Chasseurs , DragoonSpahis . Chỉ có kỵ binh của đội Cộng hòa và một đội phô trương về nghi lễ của thổi kèn cho kỵ binh / bọc thép chi nhánh [67] như một toàn bộ đang gắn kết.
Trong quân đội Canada , một số đơn vị thường xuyên và dự trữ có nguồn gốc kỵ binh, bao gồm cả Hoàng gia Canada Hussars (Montreal) , Horse Guards Tổng đốc , ngựa của Chúa Strathcona , các Dragoon Hoàng gia Canada , và Nam Alberta nhẹ ngựa . Trong số này, chỉ có Chúa Strathcona Horse của [68] và Horse Guards Tổng đốc duy trì một nghi lễ ngựa gắn kỵ binh quân đội hoặc chính thức. [69]
Cả hai quân đội Úc và New Zealand theo các thực hành Anh của việc duy trì danh hiệu truyền thống ( ngựa nhẹ hoặc súng trường gắn kết) cho các đơn vị cơ giới hiện đại. Tuy nhiên, cả hai nước vẫn giữ được một đơn vị con ngựa gắn trên.
Ngày nay, quân đội Ấn Độ 's Kỵ lần thứ 61 được báo cáo là còn lại không nghi lễ ngựa gắn kỵ binh lớn nhất trên thế giới. [70] Nó đã được đưa ra trong năm 1951 từ các phi đội kỵ binh nhà nước hợp nhất của Gwailior, Jodhpur và Mysore. Trong khi chủ yếu sử dụng cho các mục đích nghi lễ, các đoàn thể được triển khai cho vai trò an ninh hoặc cảnh sát nội bộ nếu cần thiết. [71]Các kỵ binh 61 và của Tổng thống Body Guard cuộc diễu hành đầy đủ lễ phục tại New Delhi mỗi năm trong những gì có lẽ là lắp ráp lớn nhất của kỵ binh truyền thống vẫn được nhìn thấy trên thế giới. Cả Ấn Độ và quân đội Pakistan duy trì trung đoàn thiết giáp với các chức danh của Lancer hoặc ngựa, có niên đại từ thế kỷ 19.
Tính đến năm 2007, Trung Quốc Quân đội Giải phóng nhân dân sử dụng hai tiểu đoàn kỵ binh ngựa trong Xinjing quân khu cho công việc tuần tra biên giới (xem trang web của Trung Quốc-Defense.com). Trong sự trỗi dậy của trận động đất Tứ Xuyên năm 2008 , đã có nhiều cuộc gọi để xây dựng lại hàng tồn kho ngựa quân đội cứu trợ thiên tai trong địa hình khó khăn. Phương tiện truyền thông Trung Quốc gần đây báo cáo [72] khẳng định rằng quân đội Trung Quốc vẫn duy trì hoạt động đội kỵ binh ngựa ở sức mạnh phi đội ở khu tự trị Mông Cổ.
 
Top