Mùa mưa_Nevil Shute

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

Tôi hiểu, – Ngài phó Đô đốc nói tiếp – Anh cần toán lính ấy bao lâu ?
Có lẽ đến sau Giáng sinh. Cần độ ba tuần để bảo đảm an ninh.
Ngay chiều nay nếu có thể được, thưa ngài. Tôi chỉ ngại là chưa có nơi ăn chốn ở cho họ.
Họ có thể treo võng trong nhà chứa máy bay.
Thưa vâng, được ạ.
Hai sĩ quan, năm mươi lính, đủ chưa ?
Thưa, quá dư.
Tối nay họ sẽ đến, chỉ huy trưởng ạ ! Không cần điều gì nữa chứ ?
Ba xe nhà binh, chở đầy lính, khẩu phần ăn, võng, đổ lại trước nhà chứa máy bay chiều hôm ấy. David như cất đi một gánh nặng. Tối hôm ấy anh ta tự lái xe đến biệt thự Grace and Favour, ở đấy Frank Cox sống ở căn bìa của đại Công viên Windsor. David trình bày cho chỉ huy trưởng của chàng “việc đã làm xong”.
Tôi nghĩ rằng Đại tá không quan tâm đến các thủy thủ Úc trong nhà chứa máy bay làm gì, chiếc Tare là tài sản của chính phủ Úc và tôi thấy không yên tâm khi để như vậy.
Tôi hiểu – Đại tá Cox nhỏ nhẹ trả lời – Toán lính ấy do anh đưa đến, phải không ? Họ đến đấy chỉ là để coi sóc tài sản của chính phủ Úc ?
Vâng ạ. Tôi không nghĩ rằng ông đã cho tôi hành động sai nhiệm vụ ?
Dĩ nhiên là có. – Đại tá Cox trả lời – Chuyện ấy không thể chối cãi được – dừng một chút, ông ấy nói – Làm thế nào mà anh có ý nghĩ là một toán canh gác lại tốt được ?
Viên phi công trả lời :
Tôi là một người quá thóc mách, tôi không phải là đàn ông quân tử Anh.
Frank Cox cười :
Nói cho đúng từ là một dân lai Úc, đúng không ?
Viên phi công cười trả lời :
Đúng rồi ! Tôi là một dân lai Úc nên thính mũi như những người lai khác.
Chàng uống một ly cốc tai cà chua với Không đoàn trưởng trước khi trở về lại Maidenhead.
Có điều gì cần nói cho tôi biết về công tác sắp đến không ?
Chưa có.
Tôi nghĩ là Tom Forrest sẽ trở về Ottawa. Chúng ta có đưa ông ta về chăng ?
Anh đoán mò đấy – Đại tá nói – Chính bản thân tôi cũng chưa biết nữa là ! Mà nếu có biết đi nữa, tôi cũng chưa nói cho anh hay một ai khác khi chưa cần thiết.
Viên phi công cười giả lã :
Xin lỗi anh, tôi đoán mò thật rồi ! Tôi muốn đưa ông Tom Forrest đi đâu đó.
Đối với hầu hết các quân nhân cùng thế hệ ấy, David tôn kính vị Đại Nguyên soái ấy. Cũng giống như Nigger Anderson, Tom Forrest cũng đi từ dưới cùng mà lên. Tom Forrest là con trai một người phụ trách nồi hơi ở một tiệm giặt ủi nhỏ ở Roundhay, một vùng ngoại ô của miền bắc xứ Leeds. Ông ta cũng là người lính giữ biên giới trước thế chiến và những ngày đầu chiến tranh, ông đã được thăng cấp hạ sĩ. Cuối trận thế chiến ông mang lon quyền Thiếu tướng. Năm 1946, ông đã thành công trong việc xin lưu ngũ như một Đại úy hiện dịch và thế chiến thứ hai ông là Thiếu tá. Ông giải ngũ với cấp Trung tướng và đó cũng là điều chứng tỏ phẩm chất con người ông trong suốt quá trình sự nghiệp, từ người thợ giặt ủi đến cấp tướng, ai cũng biết ông ta qua cái tên Tom Forrest.
Quan niệm chính trị của ông là xã hội chủ nghĩa nhẹ nhàng mà gốc gác của ông đã chứng tỏ, nhưng ông là người đặt lòng tin nơi các Hoàng tử, đặc biệt ông là người bạn đáng tôn kính của Hoàng tử xứ Gale. Ở nước Anh, ông được ưa chuộng và kính nể bởi hầu hết các thành viên nội các và thường thường ông cùng Iorwerth Jones đi xem trận chung kết ở Wembley. Đến nay ông đã được sáu mươi mốt tuổi và đã làm Toàn quyền của Canada được hai năm, một đại biểu bình dân và cạnh tranh với Nữ hoàng trong khối thịnh vượng Anh.
Hôm đó là ngày mười tám tháng chạp, một tuần trước lễ Giáng sinh, David lái chiếc xe hơi thể thao từ cung điện Windsor trở về, thay vì chạy thẳng về Maidenhead, chàng hướng xe về phía nhà chứa máy bay ở phi trường White Waltham. Cách nhà chứa máy bay độ một trăm mét, một lính canh hải quân chặn xe chàng lại, một bóng đen, áo choàng xanh dài mang thắt lưng vải trắng, tay cầm súng trường có gắn lưỡi lê chỉ ngay vào ngực chàng. Chàng bị giữ lại ở đó trong lúc một lính canh khác đi tìm sĩ quan với lòng mừng khấp khởi. Khi vị Thiếu úy đến, chàng mới được thả ra với lời xin lỗi vì đã được dặn trước phải làm như vậy.
Chẳng bao lâu David lại trở về với căn hộ nhỏ của chàng. Chàng tự nấu lấy một bữa ăn đạm bạc, bình thường chàng hay đi ăn ở một khách sạn, nhưng giờ đây chàng thích ở nhà hơn là gặp gỡ bắt buộc với một phóng viên tình cờ nơi công cộng. Khi ăn xong, chàng tự rửa bát đĩa. Chàng nằm đọc báo một giờ đồng hồ trước khi đi ngủ.
Ngày ấy là ngày thứ hai và chàng đã đưa Công chúa Anne và gia đình Công chúa đến Kenya vào đêm thứ sáu, có lẽ quá muộn đối với bài bình luận của báo chí vào ngày thứ bảy. Những bài báo ngày thứ hai mà chàng đang đọc phản ảnh sự khó khăn tiệm tiến về những hoạt động của Vương triều. Tờ Thời báo nói, việc thăm viếng thường xuyên của Hoàng gia đối với các nước tự trị trong khối thịnh vượng Anh là đúng và rõ ràng là không khí trong lành của Sagana đã làm cho bệnh ho của cháu bé Alexandra mau lành nhưng có điều đáng tiếc là những trường hợp ngăn cản sự đoàn tụ của Vương triều với gia đình của cháu bé để cùng rước lễ Giáng sinh. Đấy cũng là lần đầu tiên trong ký ức sinh động khi Hoàng gia không đoàn tụ với nhau trong mùa lễ này ở nước Anh. Hơn nữa, tờ Thời báo nói tiếp, có những điều hiểm nguy rõ ràng đứng ngoài luật định tiền lệ về sự phân tán quá rộng của Hoàng gia trong Liên hiệp Anh, điều này không cần phải có một sự tưởng tượng quá sống động mới hình dung được một chuỗi sự kiện làm cho nước Anh không còn Vương triều nữa, cũng như không có ai thừa kế ở xứ sở này và cũng không có một Hội đồng Quốc gia.
Tờ Bưu điện Hỏa tốc lại nói thẳng thừng. Ngang qua mặt báo là một băng chữ lớn CÔNG CHÚA ĐẾN KENYA. Tiếp theo là bài tường thuật đích thật về chuyến đi của Công chúa và gia đình đến tá túc tại biệt xá ở Sanaga, và lưu ý quý độc giả rằng Hoàng tử và Công nương xứ Gale cũng đã đến Biệt điện ở Gatineau trước đấy vài ngày. Bài bình luận nói gọn trong hai từ GIÁNG SINH VUI VẺ ? Bài báo nhằm đến Hoàng tử xứ Gale và Công chúa đương triều thích tham dự lễ Giáng sinh ở các nước tự trị trong khối thịnh vượng Anh hơn là ở tại nước Anh. Tờ Bưu điện Hỏa tốc nói tiếp, chắc chắn là rất nhiều độc giả đồng ý với họ, vì sau ba mươi bảy năm, nước Anh xã hội chủ nghĩa cai trị tồi không còn là nơi hạnh phúc như trước đây. Tuy nhiên, như người viết nói, trái tim của tất cả người dân biết suy nghĩ đúng đắn, đã tìm đến với Nữ hoàng bất kể gia đình ngài, ở thời điểm lớn nhất trong năm Thiên Chúa. Báo Bưu điện Hỏa tốc nói tiếp, đó cũng là điều đáng buồn đối với nước Anh, nếu trong những năm tương lai Hoàng gia tìm thấy tự mình phải hợp nhất vào mùa lễ vui vẻ này ở một trong những nước tự trị trong khối thịnh vượng Anh và nếu buổi trực tiếp truyền hình lễ Giáng sinh do Nữ hoàng chủ tọa ở Biệt điện Tharwa gần Canberra và rồi ghi hình lại và tiếp vận về nước Anh ở một thời điểm thích hợp, bóp méo sự thật với những sự la ó và bất mãn cố hữu.
 

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

David bỏ tờ báo xuống suy nghĩ và băn khoăn tại sao tờ Bưu điện Hỏa tốc đã bắn trúng điểm đen. Họ bắn trúng cũng phải. David và phi hành đoàn Úc, và cả chiếc máy bay, lúc nào cũng sẵn sàng cất cánh, một sự thật mà mọi người trong Ban Biên tập báo Bưu điện Hỏa tốc đều biết rất rõ. Một điều như thế khó mà giữ hoàn toàn bí mật đối với một phóng viên lành nghề và kinh nghiệm.
Đối với Nữ hoàng việc đi đến Tharwa trước Giáng sinh là một điều rất thuận lợi và giờ đây Úc Đại Lợi là một quốc gia quan trọng độc nhất nhờ sự cam kết kiên trì của ngài mà không ai trong Hoàng tộc làm được. Chàng ngồi như vậy lâu lắm, băn khoăn lo nghĩ và rồi cầm tờ Mirror lên.
Tờ Mirror không có những bài báo đấu tranh tiên phong mà chỉ là những tường thuật có đóng góp ý kiến. Bài báo có ba cột chính NƯỚC ANH ĐANG GẶP CHUYỆN GÌ ? Bài báo nói rằng những công nhân thật thà, ngay thẳng, miễn bàn về việc đi lang thang các nơi như Canada hay Kenya để dự lễ Giáng sinh. Thì cứ để cho Hoàng gia đi đâu tùy ý, bài báo nói, nhưng công nhân nước Anh sẽ làm lễ Giáng sinh theo cách thích hợp nhất mà người dân Anh thường làm, có thể trong tình đoàn kết thắm thiết trong một ngôi quán ở làng hay trong tình trạng thư giãn thoái mái của một rạp chớp bóng.
Tuần ấy là một tuần khó khăn ở nước Anh. Mọi cuộc thăm viếng cung điện Buckingham hình như đầu đề của các báo và những người đi tới viếng cũng rất nhiều, nào là đức Tổng Giám mục của Canterbury đến ngài Tom Forrest, ông Iorwerth Jones đến Đại tá Cox. Nói chung, những người viết giữ yên lặng, do đó tạo ra cảm giác như có điều gì xảy ra ở trong nước, nhưng chẳng có ai biết chuyện sẽ xảy ra như thế nào. Dần dần tin đồn có điều hệ trọng sẽ được Nữ hoàng công bố vào dịp Giáng sinh trên đài. Chẳng ai biết tin đồn phát xuất ở đâu nhưng nó loan đi rất nhanh như là một điều căng thẳng trong tuần lễ.
Vào ngày thứ tư, David bắt đầu bị phóng viên quấy rầy, khi một đại diện của tờ Mirror gọi điện đến căn hộ của chàng, và yêu cầu chàng cho biết ý kiến về những chuyến đi trong tương lai. Chàng trả lời là chưa tham khảo thư ký riêng của Nữ hoàng để trả lời cho vị đại diện ấy nhưng khi chàng đi ra nhà xe để lái về White Waltham, một phó nhòm đã đợi ở đấy và chụp một số hình ảnh chàng khi chàng đi bộ xuống lề đường và bước lên xe.
Ngày hôm ấy chàng điện thoại cho Rosemary và hai người đã ăn tối ở quán Mario khu Shepherds Market. Chàng thấy nàng xanh xao bạc nhược, nên đã quyết định ăn nhanh hơn để đưa nàng thẳng về căn hộ của nàng. Cũng vì thấy nàng mỏi mệt, căng thẳng, chàng đã tránh những đề tài liên hệ đến công việc, mà chỉ nói chuyện về thuyền bè, những nơi thường giong thuyền thuộc bờ biển nước Anh.
Nàng đã thổ lộ :
Đêm qua em đã về thăm nhà, chỉ vài giờ đồng hồ.
Chàng rất đỗi ngạc nhiên vì đâu phải ngày cuối tuần :
Em về Oxford à ?
Nàng gật đầu :
Tuần tới em sẽ không về được và có thể những tuần sau nữa.
Chàng suy nghĩ một chút rồi nói :
Thế chúng ta có đến với nhau được nữa không ?
Nàng cười trả lời :
Dĩ nhiên là được.
Chàng cười đáp lại :
Thế chẳng có gì em nhé ! Anh thấy có nhiều việc xấu đi đấy !
Nàng tìm bàn tay chàng ấn mạnh :
Em biết mà ! Anh chưa nhận lệnh gì cả, phải không anh Nigger ?
Chàng lắc đầu :
Cho đến giờ này, anh chỉ được biết là ở đây thêm sáu tháng nữa.
Nàng gật đầu nói :
Em có nghe nói là anh có nhiều lính Hải quân canh gác máy bay trong nhà chứa máy bay.
Chàng cười vui trả lời :
Có người khuyên anh phải cẩn thận. Anh không nhớ là người nào.
Nàng cười :
Có lẽ, em và anh hay lo vào chuyện của người khác. Nhưng em cũng mừng là anh đã làm được việc ấy.
Thế Quận công có biết chuyện này không ?
Nàng lắc đầu nói :
Em không nghĩ là các ngài biết. Frank Cox có nói cho Thiếu ta Macmahon nhưng em không nghĩ là ông ấy để lộ cho ai biết thêm. Em nghĩ là ông ta rất bằng lòng công việc anh làm. Dầu sao, như thế cũng đỡ lo phần nào !
Hai người lại nói qua những chuyện khác, chốc sau nàng hỏi :
Thế ngày thứ sáu anh sẽ ở đâu, anh Nigger ?
Chàng trả lời :
Ở White Waltham. Anh cũng không biết là mình sẽ ở đâu nữa !
Nàng nói :
Ba em sẽ lên đây ngày thứ sáu. Em muốn anh gặp ông cụ, có thể không có cơ hội nào nữa !

Anh cũng muốn gặp Ba em lắm. Thế ông cụ lên đây làm gì ?
Ông cụ sẽ hội kiến với ngài Tom Forrest vào ngày thứ sáu. Em nghĩ hai người sẽ ăn trưa với nhau ở Câu lạc bộ Athenaeum.
Thế ông cụ có quen ngài Tom Forrest à ?
Ba em đã gặp ông ta một hai lần gì đó. Nhưng giờ này ông ta lại muốn gặp Ba em. Ba em là giáo sư môn Kinh tế chính trị, anh ạ ! Ông ta đã điện thoại cho Ba em và vì vậy Ba em định lên gặp ông ta vào thứ sáu.
Anh hiểu – Nội tình rối rắm phức tạp. Không biết thân phụ Rosemary có bị dính líu vào cơn khủng hoảng của nước Anh không ? Dầu sao, ông cũng vô can.
Chàng cắn môi suy nghĩ nói :
Nếu tính đến đây vào ngày thứ sáu thì cũng khó cho anh thật ! Anh đã hứa cho Ryder được nghỉ đêm thứ sáu để đi thăm bạn bè của anh ta ở Hampstead. Chúng ta không thể có mặt cùng nhau ở Luân đôn cùng một lúc được. Thế Ba em bao giờ trở về ?
Ông cụ phải trở về Oxford vào đêm thứ sáu.
Chàng phi công trầm tư trong một phút rồi mới nói :
Khó quá nhỉ ! Anh xin lỗi em, Rosemary. Anh phải có mặt ở nhà đêm thứ sáu ngồi đợi điện gọi. Anh không thể không có mặt ở đó để đợi lệnh, vì đêm ấy anh đã cho phép Ryder đi nghỉ rồi !
Dĩ nhiên là không được rồi, anh Nigger ạ, nhưng nếu em và Ba em cùng đi tàu lửa xuống Maidenhead, cả ba chúng ta có thể ăn tối trong căn hộ của anh được không ?
Dĩ nhiên là được. Thế em có thể xuống đây bằng cách ấy à ?
Nàng trả lời :
Vâng, được ạ ! Em muốn anh gặp Ba em trước khi chúng ta đi.
Chàng nói :
Anh có thể kiếm một chàng trai trong phi hành đoàn lái đưa ông cụ về thẳng Oxford sau khi chúng ta ăn tối và rồi đem xe về lại đây. Người ấy cũng có thể lái xe đưa em đến ga để đi tàu lửa trở về đây. Nhưng như thế sẽ làm em quẩn chân thôi trong lúc em bận rộn như thế này.
Nàng nói :
Em thích như thế đấy ! Nó thay đổi không khí mà !
Sau khi ăn tối chàng lái xe đưa nàng về căn hộ của nàng và giúp nàng bước ra khỏi xe đứng trên lề đường Dover. Nàng mời chàng, nếu được, ghé vào căn hộ nàng một chút, nhưng thấy vẻ mặt mệt mỏi của nàng nên chàng từ chối. Chàng hôn nàng trong bóng tối của lối vào và chúc nàng ngủ ngon rồi chia tay để nàng tự mở cửa vào nhà.
Chúc anh ngủ ngon, anh Nigger yêu quí.
Chúc em ngủ ngon, Rosemary.
Một ngày khó khăn qua đi và lúc bảy giờ kém mười đêm thứ Sáu, David đứng trên sân ga Maidenhead trong đêm tối buốt lạnh, chờ đợi chuyến tàu điện đến từ Paddington. Tàu từ từ tiến vào ga với hai ngọn đèn sáng và tiếng thắng xe nghe não nuột, chàng đứng bên người soát vé dõi mắt tìm Rosemary và cha nàng. Không thấy nàng đâu, chỉ có một ông già mặc chiếc áo mưa cũ, đội nón nỉ, chận chàng lại :
Chỉ huy trưởng Anderson phải không ?
Chàng nhìn ông cụ bộ mặt hao hao giống Rosemary, trả lời :
Dạ phải – chàng hỏi lại – Thưa, ông là giáo sư Long ?
Phải. Rosemary nhờ tôi nói với anh là em nó phải về Hoàng cung đêm nay. Nên tôi nghĩ, tốt hơn là tôi nên gặp anh đêm nay vì rồi đây chúng ta khó mà có cơ hội gặp nhau như thế này. Dĩ nhiên là tôi nhận ra anh nhờ bộ đồng phục.
Sau khi nói vài câu, David hướng dẫn cha của Rosemary ra xe. Chỉ phải lái xe một đoạn đường ngắn là về đến căn hộ của chàng. Chàng nói :
Cháu rất tiếc là cô ấy phải làm việc đêm nay. Cô ấy làm việc hơi quá sức.
Ông cụ trả lời :
À, thế là phải đợi lâu lắm đấy ! – Chàng không trả lời.
Sau khi đưa ông cụ ly nước Sêri và chàng tự pha cho mình một ly cốc tai cà chua, chàng quay lại nói :
Dầu sao cháu cũng rất mừng là tối nay bác đến một mình. Có lẽ hai bác cháu sẽ được thoải mái hàn huyên với nhau. Rosemary đã thưa với bác là chúng cháu xin kết hôn với nhau chưa à ?
Ông cụ cười nói :
Nó cũng có nói sơ sơ rồi !
Viên phi công vào đề ngay :
Cô ấy có thưa với bác là cháu không phải da trắng thuần túy không ạ, mà chỉ là dân lai.
 

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

Vâng, có.
Thưa, bác nghĩ sao về chuyện ấy ?
Vị giáo sư nhún vai :
Tôi có quá nhiều việc quan trọng hơn để lo hơn là suy nghĩ về việc ấy. Để bắt đầu, tôi hỏi anh trước đây đã có vợ chưa ?
Dạ chưa. Thưa bác chuyện ấy không phải là dễ khi mình là người da màu.
Ông cụ cười :
À, anh lại bắt đầu bằng những chuyện không đâu, thôi chúng ta hãy đả thông tư tưởng càng sớm càng tốt. – Ông cụ hỏi thêm vài câu, chàng phi công cười trả lời thoải mái – Thôi nhé, hãy để chuyện da màu sang một bên. Bác nghĩ đấy là chuyện của Rosemary chứ không phải chuyện của ai khác.
Cháu thấy chính bác không để ý nhiều về vấn đề ấy, nhưng thời nay không ai là không đặt vấn đề về dân “boong” như cháu.
Boong ư ?
Đấy là từ chỉ dân da màu của dân bắc Queensland, nơi cháu sinh trưởng.
À ra thế. Quan điểm của bác là như thế này. Nếu cháu là người được xem như có khả năng phục vụ Nữ hoàng một cách trung thành như cháu đã làm, thì cháu cũng có khả năng trở thành rể của bác, nếu như Rosemary muốn kết hôn với cháu. Thế là đủ, còn cái gì cũng không đáng kể.
David đã nhờ Jim Hansen, tiếp viên hàng không Úc của chiếc Tare, đến dọn ăn tối. David ngồi cùng cha của Rosemary và dùng bữa tối với ông cụ, với xúp, thịt gà Anh, thịt heo Úc và món trộn xà lách với xoài và đu đủ và mận tươi của Kenya ăn với kem và đường. Cuối bữa ăn có cà phê. Khi người tiếp viên đi khỏi, ông cụ nói:
Anh không đặt các món ăn của cửa hàng đấy chứ ?
Viên phi công lắc đầu.
Ông cụ lại nói :
Thật ra, bác cũng nên nói cho cháu biết bác đã nói những gì với Rosemary chiều nay. Đây là những giai đoạn khó khăn và con của bác dấn thân vào những sự việc lớn lao. Bác đã nói với Rosemary rằng, nếu thấy mình hiện diện ở một đất nước xa xôi nào đó mà ở đấy mình cảm thấy phải ở lại hàng tháng và có khi cả hàng năm, mà nếu gặp được ý trung nhân ở nơi ấy thì đừng nghĩ rằng bố mẹ sẽ làm trở ngại việc hôn phối. Con gái đi lấy chồng là chuyện tự nhiên, hai bác cũng muốn thế. Nhưng nếu có gì không thuận lợi, em nó không nên trì hoãn để chờ ý kiến của hai bác. Rosemary phải tự quyết định cuộc đời của nó và nếu em nó muốn kết hôn trong lúc ở xa cha mẹ, hai bác cũng miễn chấp.
David nói :
Hai bác đã thương mà nói như thế chúng con phải nghe theo.
Ông cụ hỏi David về sức học và đời sống trước đây của chàng, hai người lại nói chuyện về miền bắc Queensland.
Ông cụ nói :
Rosemary đã kể cho hai bác nghe hầu hết về miền đất này. Hai bác cũng cảm thấy ân hận nếu để con gái mình sinh sống ở Úc vì bác và bác gái là người Anh. Hai bác sẽ chẳng bao giờ rời khỏi thành phố Oxford. Nhưng dầu sao, bác vẫn nghĩ con gái bác hành động đúng. Cô bé đã giữ một vai trò quan trọng trong lúc tuổi còn trẻ. Nếu em nó theo anh đến Úc, nó sẽ đến được trung tâm của Liên hiệp Anh nơi tất cả những sự kiện quan trọng sẽ xảy ra trong tương lai trước khi em nó đến tuổi về hưu.
David tò mò nhìn ông cụ :
Bác đã nghĩ như vậy ư ? Bác cho rằng nước Úc rồi đây sẽ là trung tâm của Liên hiệp Anh ư ?
Đúng. Dân số của Úc bây giờ là bao nhiêu ?
Độ chừng hai mươi bảy triệu, con số này đang thay đổi không ngừng. Đợt kiểm tra dân số vừa rồi mới chỉ hai mươi ba triệu, nhưng cách đây cũng không lâu lắm.
Vị giảng viên đại học gật đầu :
Cũng đúng thôi. Thế cháu đoán cuối cùng nó sẽ là bao nhiêu ?
David trả lời :
Dạ cũng rất khó nói. Tất cả đều tùy thuộc vào nước. Khi cháu còn nhỏ, mọi người nói con số hai mươi lăm triệu là giới hạn. Nhưng trong cuộc sống hiện tại, chương trình thủy lợi bằng tuyết đã được thực hiện, vùng Burdekin và hơn nửa chục các vùng khác và ngày nay chương trình hạt nhân biến nước biển thành ngọt ở miền bắc Úc, chung quanh vùng rừng Rum và giá cả càng ngày càng rẻ. Người ta kháo nhau rằng giới hạn có thể là năm mươi triệu, nhưng có người nói một trăm năm mươi triệu.
Vị giáo sư nói :
Con số năm mươi triệu hay một trăm năm mươi chẳng quan trọng gì mấy. Nước Anh có thể nuôi sống ba mươi triệu, và khi dân số nước này tụt xuống con số ấy, mọi sự thình lình biến đổi và nước Anh đã trở thành một đất nước hạnh phúc và thịnh vượng. Nhưng nước Úc luôn luôn có ưu thế về dân số, đó là ưu thế vĩ đại đối với sự an toàn chiến lược. Và trên tất cả mọi sự, nước cháu có được một hệ thống dân chủ hữu hiệu.
Bác muốn nói đến phiếu bầu nhiều thành phần ?
Ông cụ gật đầu :
Thế anh có bao nhiêu phiếu bầu
Bản thân cháu ? – viên phi công hỏi – cháu được ba phiếu bầu.
Căn bản và giáo dục ? – David gật đầu – Thế phiếu bầu thứ ba ?
Người phi công trả lời :
Sống ở nước ngoài. Cháu có được nhờ tham gia đệ nhị thế chiến.
Ngừng một lát, ông cụ nói tiếp :
Nếu ai cũng như anh ở nước Anh này có ba phiếu bầu thay vì một, chẳng cần nói đến một vị Toàn quyền làm gì !
David ngồi yên lặng nghe những gì qua đi trong cơn gió thoảng. Phải có một vì Toàn quyền cho nước Anh cũng như trong tất cả các lãnh thổ tự trị trong khối thịnh vượng Anh, một vật “giảm chấn” giữa chính trị gia được bầu và Nữ hoàng, được Nữ hoàng chọn lựa nhờ có khả năng điều hợp giữa các chính trị gia hiện hữu để phụng sự Nữ hoàng. Nếu có người nào đó có thể ngày này qua ngày khác chịu khó làm thế công việc cho Nữ hoàng như Khánh thành các Tòa Thị chính, đặt viên đá đầu tiên cho các đập nước, dự các buổi thiết triều, chủ tọa các buổi tiếp tân trong vườn ngự uyển để Vương triều có thì giờ lo công tác điều hành thật sự Khối Thịnh vượng Anh. Khi David ngồi suy tư những việc như thế thì những mảnh lắp ghép của trò chơi ghép ô dồn đến trong trí chàng. Tom Forrest là người đầu tiên được chọn làm Toàn quyền cho nước Anh, ông đang tiến thân từ tận cùng của xã hội, ông đã được tuyên dương và ngưỡng mộ như là một quân nhân đã lãnh đạo dân chúng Anh tiến tới vinh quang trong đệ nhị thế chiến, ông đã làm Toàn quyền xứ Canada mới được hai năm và là người bạn thâm giao của Hoàng tử xứ Gale. Với ý nghĩ ấy, David đã ghép được vào đúng ô của trò chơi ghép ô. Với Tom Forrest hay một người nào đó như ông, sẽ đứng giữa Vương triều và thủ tướng Iorwerth Jones, có lẽ sự kế vị sẽ ít khó chịu hơn đối với Hoàng tử Charles. Có lẽ đó là những gì thân phụ của Rosemary muốn nói. Có lẽ một vị Toàn quyền nước Anh là một điều kiện mà các bậc thừa kế ngai vàng cần có, được xem như một sự chọn lựa của việc thoái vị. Có lẽ lời mắng nhiếc độc địa về phi trường White Waltham là giọt nước cuối cùng làm tràn ly đối với Hoàng tử Charles do Thủ tướng nước Anh. Có lẽ đó cũng là một việc làm có dụng ý. Có lẽ David sẽ lái máy bay cho Hoàng tử Charles đến Canada để nói thay cho Công chúa và chính bản thân Hoàng tử và cũng để trình lại với Nữ hoàng là họ không thể đảm trách công việc ấy.
 

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

Tất cả những điều này vụt qua trong ý nghĩ của David trong lúc cha của Rosemary lại ngồi suy tư trước ngọn lửa, không để ý đến cách cư xử thiếu lịch sự của chàng trai hay có lẽ ông cụ đang nghĩ rằng chàng phi công đã nghe tất cả những biến chuyển vừa qua. Ông cụ trầm tĩnh nói :
Một người một phiếu bầu, thật sự chưa bao giờ có hiệu quả. Nó xuất hiện vào thời kỳ xã hội tự do được đánh thức giữa thế kỷ thứ mười chín. Những thành phần cai trị trong xứ sở này dựa trên sự chậm tiến để sửa sai những khuyết điểm mà những thế hệ trước cùng giai cấp đã làm đối với con người và họ làm cho tất cả mọi người bình đẳng trong việc quyết định những công việc của xứ sở, dựa trên quyền phủ quyết của Hạ viện để kiềm chế những chính trị gia được bầu thiếu trách nhiệm. Điều ấy trông có vẻ hứa hẹn một thời, trong lúc một số dân biểu có học vấn, được đi nhiều của Hạ viện vẫn còn giữ quyền phủ quyết. Nhưng họ không bao giờ cải cách Hạ viện do vậy cuối cùng sự kiềm chế vẫn tiến hành và rồi hệ thống ấy cũng ngừng hiệu quả.
Quay về phía David, ông cụ nói :
Tôi nghi ngờ nếu lịch sử có thể chứng tỏ, ở bất cứ lý do nào, bất cứ thời nào, một hình thức cai trị càng tham lam hơn dân chủ như đã thực hiện ở nước Anh trong suốt năm mươi năm qua. Một người dân thường có quyền bầu cử, và người dân thường đó đã đi bầu một cách dứt khoát để làm gia tăng mức sống của chính bản thân, chưa kể đến lợi ích lâu dài của con cái, chưa kể đến lợi ích rộng lớn của xứ sở. – Ngừng một chút, ông cụ nói tiếp – Khi tôi còn trẻ, nước Anh đã mất những mỏ dầu Batư và nhà máy lọc dầu Abadan. Vào năm cuối hoạt động của công ty ấy, những người có cổ phần đã rút khỏi lợi nhuận bốn triệu Anh kim, và chính phủ Ba Tư được hưởng mười sáu triệu và chính phủ Anh lấy năm mươi bốn triệu tiền thuế. Chính quyền Ba Tư gây bạo loạn và thế là chúng ta mất trắng nền công nghiệp lọc dầu, nhà máy, quyền khai thác và tất tất, vì chúng ta quá tham lam. Từ đấy câu chuyện buồn như thế cứ lập đi lập lại mãi. Không có bạo chúa, không có Vương triều chuyên chế nhưng sự kiêu hãnh và tham lam đã làm băng hoại nước Anh và ngay cả đến người dân thường. Mỗi một xu nặn ra được từ quốc gia đều được dồn vào việc nâng mức sống của những thành phần có năng lực thấp nhất trong nước, thành phần có quyền bầu cử. Chẳng có tiền bạc nào của nước Anh dành cho những hành động nhân đạo, hay cho việc đầu tư hải ngoại, hay để tái thiết bị nền công nghiệp của đất nước, và những nhà chính trị có quyền lực nhờ hệ thống phiếu bầu này đã vô trách nhiệm và ít hiểu biết ở cả Thượng lẫn Hạ viện.
Ông cụ dừng một chút rồi nói tiếp :
Người dân nước Úc đã khôn ngoan hơn. Có lẽ nó dễ dàng hơn đối với nước này vì lý do tình hình kinh tế. Nhưng cho tới khi đất nước này theo gương các anh một lần nữa như họ theo các anh trong việc thiết lập bầu phiếu kín và họ cho phép người phụ nữ tham gia đầu phiếu, bác vẫn chưa thấy được một tương lai hồ hở nào cả.
Ông cụ gõ chiếc điếu cho tàn thuốc rơi ra rồi nói tiếp :
Bác phải trở lại Oxford. Bác chỉ muốn nói cho cháu biết thế thôi. Cũng vì những lý do như thế bác chấp nhận cho Rosemary đi Úc và làm lễ cưới ở bên ấy nếu con gái bác quyết định đồng ý lấy chồng. Bác nghĩ đất nước của cháu đang ở trên chính lộ tiến tới sự vĩ đại. Bác không nghĩ là nước Anh sẽ như thế.
Ông cụ đứng dậy và David đứng dậy theo.
Đây có phải là điều bác đã nói với Ngài Tom Forrest chăng ? – David hỏi.
Vị giáo sư đại học mỉm cười nói :
Không nhiều thì ít. Khi người ta khư khư bảo thủ những thành kiến. Người ta có khuynh hướng đã kích chúng bất cứ ai người ta gặp, nhất là khi người ta trở về già.
David nhấc máy điện thoại và gọi cho Trung sĩ Syme để lái xe đưa giáo sư trở về Oxford trong xe hơi của chàng. Trong lúc chờ xe đến, hai người lại nói chuyện với nhau. Chàng phi công nói :
Cháu sẽ liên lạc với bác sớm vì cháu cần gặp bác gái. Nhưng tình hình đã trở nên khó khăn trong tuần qua hoặc thêm hai tuần nữa và giờ này dường như cháu chẳng bao lâu nữa cũng sẽ đi xa.
Ông cụ nói :
Không hề gì. Theo lời hứa, có lẽ cháu sẽ trở lại nước Anh trong vòng một tháng nữa, trước cả Rosemary, cháu có thể đến thăm hai bác nhé !
Xe hơi đến, David xuống tận đường để đưa ông cụ về Oxford. Chàng trở lại căn hộ trống và đứng nhìn ngọn lửa tàn một lúc lâu, suy nghĩ những điều đã học được và ý ông cụ muốn nói gì với chàng. Nếu Nữ hoàng phải tuyên bố sự chỉ định Tom Forrest làm Toàn quyền nước Anh, điều đó có nghĩa ngài phải rời khỏi nước Anh ngay, ngài không thể ở lại trong nước sau sự chỉ định ấy. Trong một năm có mặt ở nước Anh chàng đã biết được đầy đủ tình hình của xứ sở này để nhận định được rằng cơn khủng hoảng rất trầm trọng và vì sao Rosemary lại khuyên chàng nên thận trọng và mọi chuyện đã đúng như vậy. Dĩ nhiên, Rosemary đã biết mọi chuyện sẽ xảy ra. Ắt hẳn là nàng đã biết những chuyện này lâu lắm rồi, có lẽ ngay cả khi hai người còn ở Ottawa. Da mặt nàng tái và mệt mỏi cũng là chuyện dễ hiểu.
Cơn khủng hoảng đối với dân Anh thật trầm trọng. Bị cơn khủng hoảng này, một số ít người Anh sẽ mất lý trí, cư xử một cách dại dột và có khi làm những chuyện điên khùng. Cũng có thể có một số thành phần dân chúng quay ra chống đối Liên hiệp Anh, Khối Thịnh vượng đã lôi cuốn Nữ hoàng bỏ đi. Sự căm thù sẽ bùng dậy và những chuyện xấu xa sẽ xảy đến. Quân phục của Không lực Hoàng gia Úc quá đặc biệt gây nên một trở ngại lớn, máy bay Úc có thể bị phá hoại. Chàng cũng biết rằng chỉ trong vòng một tuần, nước Anh sẽ ổn định trở lại, sẽ trở về với sự trầm tĩnh cố hữu, nhưng bất cứ một điều gì cũng có thể xảy ra trong vài ngày đầu. Dân chúng nghèo khổ, lam lũ không có điều kiện để suy nghĩ sáng suốt, khách quan khi bị cú sốc này.
 

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

Chàng cũng thầm cám ơn Thượng Đế đã khiến Rosemary cảnh giác chàng, đã khiến cho sự khôn ngoan của một sĩ quan Hải quân Úc đã cấp cho chàng những toán lính canh máy bay phòng ngừa những sự hiểm nguy mà chính bản thân chàng cũng không hiểu nổi và cũng không thể giải thích. Nhiệm vụ của chàng là giữ cho máy bay an toàn, đầy đủ, và cả phi hành đoàn nữa, luôn sẵn sàng đưa Nữ hoàng đến nơi nào ngài muốn đi. Nhưng khi đứng trước lò sưởi với ngọn lửa sắp tàn, sự thương cảm của chàng lại nghiêng về phía dân Anh. Có bao giờ một dân tộc lại bị đối xử tàn tệ như vậy ? Trong bốn mươi năm qua, dân tộc đó đã chiến đấu cho sự sinh tồn trong một thế giới khắc nghiệt về kinh tế mà trong đó quốc gia của họ đã được tạo dựng nên. Họ đã tiếp tục chiến đấu một cách ngoan cường, xóa bỏ giai cấp, và đoàn kết với nhau trong chủ nghĩa xã hội thích hợp với cuộc chiến đấu gian khổ của họ. Họ đã phải phạm sai lầm – có nước nào mà không ? – Nhưng họ đã thực hiện những phẩm chất phi thường về kỹ năng và sản xuất, không những giúp cho việc giảm thiểu sự suy thoái mà còn làm cho nó hoạt động có hiệu quả. Giờ đây, như là một sự tưởng thưởng, Nữ hoàng của họ đã nhường bước một ít, Vương triều vẫn tồn tại và Khối Thịnh vượng chung đoàn kết với nhau. Những người dân Anh khốn khổ đã được sử dụng cật lực ! Nữ hoàng khốn khổ bị quấy rối, âu lo !
Chàng lắc đầu chán nản và buồn khổ rồi đi ngủ. Nhiệm vụ của chàng là phải tự bảo vệ mình, bảo vệ phi hành đoàn và cả chiếc máy bay, ngăn ngừa bất cứ điều gì mà người dân Anh có thể làm trong cơn giận dữ ban đầu do cú sốc gây nên. Giờ đây, họ có làm gì đi nữa, chàng vẫn cảm thấy thương xót cho họ.
Ngày tiếp theo là thứ bảy, ngày trước đêm Giáng sinh. Thường thì chàng cho nhân viên phi hành nghỉ trong hai ngày thứ bảy và Chủ nhật, nhưng chàng đã cắt đặt cho họ canh gác nhà chứa máy bay vào ngày cuối tuần. Chàng vẫn có mặt như thường lệ ở nhà chứa máy bay vào lúc tám giờ rưởi. Vào lúc mười giờ, chàng nhận điện thoại của ông Cox mời chàng đến Luân đôn vào điện St. James.
Một giờ sau chàng vào văn phòng ở Engine Court. Ông Frank Cox đợi chàng vào mới đóng cửa kín lại.
Các ngài sẽ đi Canberra vào tối Giáng sinh, anh Nigger ạ ! Riêng anh có gì trở ngại không ?
Viên phi công lắc đầu. Mọi việc xảy ra trong mấy ngày qua khiến chàng chờ đợi tin này. Chàng trả lời :
Tất cả đã sẵn sàng. Thế các ngài muốn đi giờ nào ?
Giờ nào thuận tiện nhất hả anh ?
David trả lời :
Giờ nào cũng được cả. Thế các ngài có muốn dừng lại ở Colombo chăng?
Đại tá trả lời :
Lúc này chưa được. Các ngài còn nợ Tích Lan một cuộc thăm viếng, và các ngài dự định sẽ đến đó nửa tháng hay ba tuần vào tháng Hai cơ ! Nhưng nói chung ngài đang mệt về chuyện này lắm. Ngài muốn bay thẳng đến Tharwa và nghỉ ngơi ở đấy một thời gian.
Viên sĩ quan Úc gật đầu :
Phải bỏ ra một giờ để tiếp liệu xăng nhớt ở Ratmalana, nếu cất cánh vào lúc chín giờ, sau khi các ngài đã ăn tối, chúng ta sẽ đến Canberra vào lúc bốn giờ sáng. Tôi đã từng tâu với ngài như vậy và có lẽ đó cũng là cách thoải mái nhất để ngài có thể chọn. Nhưng chúng ta cần thực hiện cách nào mà ngài thích.
Đại tá Cox nói :
Như thường lệ, ba giờ chiều ngài đọc diễn văn trên đài. Ngài sẽ nói trong hai mươi phút. Quận công Philip muốn đưa ngài đi ngay sau khi xong. Không phải ngay mà sớm hơn một chút. Nếu bay lúc sáu giờ có tiện cho anh không ?
Được thôi. Chúng tôi sẽ tiếp liệu xăng nhớt ở Ratmalana vào giờ ăn sáng và đến Canberra vào lúc một giờ sáng. Dĩ nhiên lúc đó trời còn tối. Chúng ta chẳng có chiến đấu cơ hộ tống như họ muốn chào mừng ngài.
Ngài không thích thế đâu, anh Nigger ạ ! Không phải lúc. Ngài chẳng muốn lễ nghi quan cách gì tất. Ngài đang mệt mỏi lắm !
David gật đầu :
Như vậy có lẽ đáp xuống một giờ sáng cũng tốt cho mình ! Chắc không có nhiều người tụ tập ở phi trường Fairbairn vào lúc nửa đêm.
Không. Tôi sẽ trình lại với Quận công Philip chiều hôm nay và tôi sẽ đề nghị cất cánh lúc sáu giờ chiều ngày Giáng sinh. Bây giờ, bằng cách nào anh phổ biến hạn chế cho phi hành đoàn của anh ?
Phổ biến hạn chế ?
Vâng, vì vấn đề an toàn. Điều tối quan trọng là không được để lộ ra ngoài trước giờ bay.
Viên phi công suy nghĩ một chút rồi nói:
Tôi muốn hãng Shell kiểm tra nhiên liệu một lần nữa trước khi bay. Bơm xăng ra hết rồi bơm vào trở lại, như họ đã làm trước đây. Nếu họ bắt đầu sáng Giáng sinh, thì sẽ xong vào giờ ăn tối. Tôi sẽ thông báo cho phi hành đoàn và cho họ trở về lấy quân trang quân dụng. Như vậy cũng đủ cho họ biết tin. – Chàng dừng lại – Dĩ nhiên là phải có thực phẩm.
Tôi sẽ xét lại vấn đề thực phẩm. – Đại tá có hơi suy nghĩ nói – Có điều gì xảy ra cho phi hành đoàn thì lôi thôi lắm. Thế anh có thể cho phép họ đi cùng nhau trên một xe GMC có hai hay ba thủy thủ Úc đi kèm, có được không ? Cứ luân phiên cho từng người về nơi đồn trú.
David gật đầu :
Để tôi suy nghĩ về vấn đề này đã. Cứ giao cho tôi, thưa Đại tá. Máy bay tôi và phi hành đoàn sẵn sàng chờ lệnh xuất phát vào lúc sáu giờ. Chúng tôi sẽ không thông báo cho họ trước giờ ăn tối đâu. – Chàng nói tiếp – Hành lý chuyển lên vào lúc năm giờ ba mươi ?
Frank Cox gật đầu :
Tôi sẽ lo liệu cho đoàn tùy tùng với hành lý của họ tập họp ở cung điện và đi một lần xuống sân bay.
Bao nhiêu người ?
Đã ấn định như chuyến bay đến Camberra lần trước, tám người và tôi.
Chàng buộc miệng hỏi :
Thế cô Long có đi lần này không ?
Có chứ. Cô ấy sẽ đến.
Hai người nói với nhau thêm một lúc nữa về những chi tiết cần thực hiện trong chuyến bay, sau đó David chia tay. Khi vừa đi ra khỏi cửa, Frank Cox nói với theo :
Này, luôn tiện, anh đã xem tờ Mirror chưa ?
Chưa.
Đại tá Không đoàn trưởng trở lại bàn giấy và mở tờ báo ở giữa một bức ảnh chụp David rất lớn, dáng điệu buồn bã, đang bước xuống lề đường Maidenhead để tìm xe hơi. Bên dưới có dòng chữ lớn “ANH TA SẼ ĐI VỀ ĐÂU NHỈ ? Chỉ huy trưởng phi đội Anderson của Không lực Hoàng gia Úc trong Phi đội Nữ hoàng”.
David nhìn bức ảnh im lặng một lúc rồi nói :
Những hoạt động của bọn mình không còn là bí mật nữa.
Frank Cox buồn chán trả lời :
Tôi biết thế nhưng chúng ta phải thi hành nhiệm vụ.
Đứng ở văn phòng Engine Court, David lưỡng lự, không quyết định, băn khoăn tại sao lại không gọi điện thoại cho Rosemary để hẹn nhau đi ăn tối. Cuối cùng chàng quyết định để nàng yên, chỉ với hai ngày nữa thôi mà nàng phải làm việc cật lực và nếu có gặp nhau đi nữa, chắc sẽ làm nàng bối rối hơn trong lúc nàng không còn đủ nghị lực để bối rối thêm. Chàng gọi taxi ở cuối đường Hoàng cung St. James đến Shell House và tìm được một viên chức của Chi nhánh Hàng Không lo phục vụ ngày lễ, và nhờ người ấy, chàng đã sắp xếp công việc tiếp liệu ở White Waltham vào buổi sáng Giáng sinh.
Chàng lái xe về phi trường và thông báo cho phi hành đoàn về việc kiểm tra máy bay vào toàn bộ ngày Chủ nhật. Ngày ấy họ đã làm việc từ sáng đến tối, buổi tối Giáng sinh, và chẳng tìm thấy thiếu sót nào. Đêm hôm đó họ rời khỏi chiếc Ceres và để cho các thủy thủ canh gác và buổi sáng Giáng sinh họ trở lại công tác bơm nhiên liệu ra, phân tích và bơm trở lại cho đầy máy bay.
Vào mười hai giờ trưa, những nhân viên hãng Shell lái những chiếc xe bồn trống rỗng ra đi để trở về với ngày Giáng sinh muộn màn và David tập họp phi hành đoàn trong khoang chính của máy bay, cửa đóng. Chàng nói :
Chúng ta sẽ về nhà chiều nay, các bạn ạ ! Cất cánh lúc sáu giờ, có Nữ hoàng trên phi cơ, ghé Ratmalana. – Chàng thông báo kế hoạch đi lấy quân trang – Tôi muốn chiếc xe chở các bạn trở về đây lúc ba giờ kém mười lăm, sau giờ đó không ai được phép rời khỏi nhà chứa máy bay.
Trung sĩ Không quân Syme hỏi :
Chúng tôi có thể nghe lời phát biểu của Nữ hoàng không, Cơ trưởng ?
Chàng gật đầu :
Trong máy bay cũng có đài. Chúng ta cùng nghe với nhau ở đây.
Chiều hôm ấy, tất cả đều tập họp trong văn phòng nhỏ, trống trải nhưng thiết thực trong nhà chứa máy bay, bảy người đàn ông và một cô gái. Đồng phục xanh đậm của Không lực Hoàng gia Úc. Phía ngoài văn phòng, chiếc Ceres bề thế màu sáng bạc, hiện ra lờ mờ vĩ đại, đã tiếp tế đầy đủ nhiên liệu và sẵn sàng bay. Những thanh niên đứng ngồi bên cạnh bàn, bệ vệ trang nghiêm, nhận thức được rằng sẽ nghe một điều gì đó rất quan trọng, nhưng chưa biết là điều gì !
Tiếng chuông đồng hồ Big Ben vừa gõ, buổi phát thanh bắt đầu, người xướng ngôn vừa giới thiệu và giọng nói quen thuộc bắt đầu nói với mọi người, thỉnh thoảng có bị ngắt quãng vì quá mệt mỏi.
Lời Nữ hoàng vừa dứt, cô Gillian Foster ràn rụa nước mắt.
 

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

Chương 9

Vào lúc năm giờ, họ kéo chiếc Ceres ra khỏi nhà chứa máy bay, đi một vòng rồi mới cho nổ máy. Sau khi khởi động, thấy chẳng có gì trở ngại họ cho tắt máy. David ngồi trong ghế Cơ trưởng một lúc, tâm trí để cả vào tiếng máy nổ xem thử có gì chưa hoàn chỉnh hay có sự kiểm tra nào chưa chính xác. Ở bên dưới, trên đường băng, những thủy thủ Úc, xếp thành vòng tròn quanh chiếc máy bay để ngăn chặn không cho bất cứ người nào nhân đêm tối tiến sát vào chiếc máy bay.
Một chiếc xe buýt của hãng hàng không BOAC chạy đến nhà chứa máy bay như là một sự ngụy trang của Frank Cox để tránh sự chú ý. Ông ta cùng tất cả đoàn tùy tùng đi trong xe với tất cả hành lý, trừ Nữ hoàng và Quận công. David bước xuống gặp phi hành đoàn và tìm Ryder khi anh ấy đang giám sát việc chuyển hành lý lên máy bay. David nói vài tiếng với bác sĩ Mitchison và với Macmahon, và đề nghị hai người lên máy bay cho đỡ lạnh. Rồi chàng quay qua nói với Rosemary :
Em cũng nên lên máy bay đi. Trông em có vẻ mệt lắm.
Rosemary trả lời :
Em muốn đứng đây một chút cho thoáng. Ngồi mãi trong văn phòng như bị giam – Ngừng một chút nàng nói tiếp – Anh có nghe buổi phát thanh không anh ?
Anh nghe với các bạn trong nhà chứa máy bay. Thật cảm động.
Nàng hỏi :
Anh có ngạc nhiên gì không ?
Chàng lắc đầu :
Anh cũng biết ít nhiều chuyện sắp xảy ra. Anh không nghĩ là các bạn trong phi hành đoàn hiểu được.
Thế họ chấp nhận chuyện ấy như thế nào ?
Chắc em muốn đề cập đến ngài Tom Forrest ? Các bạn anh cho đó là nhà tư tưởng lớn. Nhưng em thấy đó, họ là người Úc nên chuyện thay đổi một vị Toàn quyền cũng bình thường thôi. Anh không nghĩ là vấn đề có chấp nhận hay không, điều quan trọng là dân Anh sẽ chấp nhận như thế nào ?
Em hiểu rồi ! – Nàng đứng đấy một phút, đầu để trần, mặc cho gió mát lạnh thổi tung mái tóc, thoải mái nói – Em tin rằng giờ đây dân chúng nước Anh đã trưởng thành để nhận định điều đó là cần thiết, chứ cách đây ba mươi năm, lúc Nữ hoàng đăng quang, họ chưa biết gì. Ba em nói dân Anh đã thay đổi nhiều dưới triều đại của ngài, lúc ba em còn trẻ.
David nói :
Thật là một bài diễn văn tuyệt vời. Ai viết cho Ngài thế em ?
Nàng thở dài trả lời :
Mọi người. Huân tước Marlow viết một bài. Quận công viết một bài. Rồi sau đó, ngài Tom Forrest nói chuyện với ba em và ngài đã nộp một bài, thực chất là của ba em, từng từ một. Thiếu tá Macmahon đã gộp chung những bài ấy và đưa ngài xét duyệt và rồi ngài Robert Menzies từ Melbourne cũng viết cho ngài ba ngàn từ, trong đó cũng có vài điều thú vị. Và thế là em phải mất nửa tháng trời để đánh máy từ mười lăm đến hai mươi lần, anh Nigger ạ ! Em đã phải thức dậy lúc nửa đêm, hoài hoài như thế, đến nổi thuộc lòng nhiều đoạn.
Chàng bóp tay nàng trong đêm tối, nàng cười nhìn chàng. Chàng nói :
Giờ thì xong cả rồi ! Thật đáng phục đối với một bài diễn văn tuyệt vời như thế lại được hình thành do nhiều ý tưởng góp lại.
Nàng trả lời :
Không phải đâu anh – Nữ hoàng buổi sáng Chủ nhật đã bỏ đi tất cả và tự mình ngồi viết theo ý Ngài. Sau đó, không ai được phép thay đổi một từ nào. Em đã đánh máy những gì ngài viết trên mười một tờ giấy khổ một phần tư tập vở, mà chẳng có thay đổi hay tẩy xóa gì hết.
Hai người tay trong tay, đứng với nhau trong bóng tối. Chàng nói :
Em đã nói đúng về Tharwa, giờ này Tharwa đang mở cửa chờ đợi khách. Ngài chỉ xa vắng Tharwa chưa đầy ba tuần lễ.
Em biết rồi. Ngài ra khỏi nước Anh giờ này là rất thích hợp và xem thử cái gì đang sôi sục dưới quyền ngài Tom Forrest. Ắt hẳn một số quá khích của Đảng Lao động đang nổi giận.
Với ngài ?
Nàng nhìn chàng trả lời :
Ồ không. Với chính phủ của ông Iorwerth Jones. – Dừng một chút nàng nói tiếp – Ngày hôm qua đã có sự rạn nứt rồi đấy ! Có nhiều kẻ a dua theo, nhưng cũng đã quá chậm.
Anh hiểu. – Thật ra chàng cũng ít biết về những màn chính trị của Anh nên chàng không dám bình luận, chỉ nói gọn một câu – Ngài Tom Forrest đã đến lúc phải hành động.
Nàng gật đầu :
Ông ấy cũng chẳng cần ! Đêm thứ tư, ông ấy sẽ tuyên bố trên đài.
Em có biết ông ta sẽ nói gì không ?
Nàng lắc đầu :
Nếu ông ta tuyên bố tất cả những gì mà ông ta đã làm nháp sẵn, chắc cũng phản ảnh một phần nào trong bài diễn văn. Ông ta có đủ khả năng làm như vậy. Ông ta là một trong những người ái mộ ba em.
Ngọn gió tháng chạp buốt da thổi từng đợt lạnh cóng quanh hai người và nàng nép sát vào người chàng. Giọng chàng dịu dàng nói :
Em nên vào máy bay đi ! Đứng ngoài trời như thế này, em cảm lạnh đấy ! Đến khi em ra khỏi máy bay, trời sẽ ấm và rừng hoa bạt ngàn phô sắc bên ngoài. Em còn nhớ trước sân khách sạn Canberra không ?
Nàng gật đầu :
Rời khỏi nước Anh em chẳng ưa chút nào. – Nàng nói giọng nhỏ quá khiến chàng phải cúi xuống mới nghe được – Nhưng đây là dấu chấm hết cho những sự vụng về và thiếu cương quyết. Đây cũng là dấu chấm hết cho một sự kiện bắt đầu từ năm 1867, khi vô số những người theo chủ nghĩa duy tâm rộng lượng, đã cho một phiếu bầu cho mỗi người.
Chàng dắt nàng lên máy bay, bước lên những bậc cấp để vào khoang giữa, và cô Gillian Foster có bổn phận đưa nàng vào ghế ngồi. David lại bước xuống đường băng và nhìn vào đồng hồ. Chỉ còn mười phút nữa bay trước khi xe hơi Nữ hoàng có mặt. Chàng đi bộ dưới những động cơ, bồn chồn nghĩ ngợi, chốc chốc lại nhìn lên từng động cơ một. Có điều gì hoàn toàn khác lạ đối với chàng như một trở ngại trước chuyến bay. Chàng đã từng bay nhiều và bay xa đến nỗi có một quá trình dài trong quá khứ. Mọi cái đã được kiểm tra và mọi cái đều đúng, thế nhưng chàng vẫn âu lo tiên đoán một sự hiểm nguy xảy đến. Có lẽ là bánh xe cũng nên. Chàng đi bộ tiến về phía những bánh xe lớn, đưa tay sờ lên mặt ngoài của vỏ bánh xe, nhìn khoảng đất trước bánh xe và sau bánh xe, đứng nhón gót để sờ lên điểm cao nhất. Những bánh xe hoàn hảo, với trí thông minh, chàng cũng đã biết như vậy rồi ! Tuy vậy một cảm giác đang bị lâm nguy đang đè nặng trong hồn.
Chàng đi bộ đến cầu thang, nơi mà Frank Cox đang chờ đón Nữ hoàng và đứng lại bên cạnh anh ấy. Đúng sáu giờ, những ngọn đèn của chiếc Daimler lớn xuất hiện trên đường phía ngoài. Xe dừng lại ở trạm gác ở đấy những sĩ quan Hải quân đang đứng đợi, sau đó xe tiếp tục chạy và tiến sát vào phi cơ. Hai sĩ quan đứng nghiêm chào khi Nữ hoàng cùng chồng bước ra khỏi xe.
 

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

Nữ hoàng chào họ và đi bộ lên cầu thang, Frank Cox hộ tống Nữ hoàng lên máy bay. Quận công dừng lại một lúc để nói chuyện với David :
Những sĩ quan và thủy thủ Hải quân từ đâu đến ?
Họ đến từ Hải vận hạm Hoàng gia Úc Gona, thưa ngài. Chiếc Gona hiện neo tại Portsmouth.
Làm sao anh có được?
Tôi xin Phó Đô đốc O’Keefe yểm trợ. Họ đã ở đây được nửa tháng.
Họ toàn là người Úc, phải không ?
Dạ phải.
Có lẽ đấy là việc làm khôn ngoan. Cám ơn Chỉ huy trưởng Anderson.
Ông ta bước lên mấy bậc cấp để vào máy bay, David đi theo ông ta. Jim Hansen, tiếp viên hàng không, đóng cửa lại và David tiến thẳng đến buồng lái bên cạnh Ryder. Frank Cox cũng lên buồng lái sau đó một phút :
Cất cánh theo giờ của anh, nghe David.
David gật đầu và khởi động các động cơ.
Mười phút sau họ cho máy bay lên cao, theo hướng đông nam, trên đường đến đảo Síp. Họ bay qua nhiều tầng mây trong bóng đêm, cuối cùng máy bay bắt đầu vào bầu trời trong sáng, đầy ánh trăng ở độ cao chừng hai mươi hai ngàn bộ trên miền Bắc nước Pháp. Cơ trưởng ngồi bất động ở tay lái khi máy bay càng lên cao, vẫn cảm thấy âu lo, bồn chồn trong dạ và cảm giác đang lâm nguy vẫn đè nặng trong tâm hồn. Chàng chỉ lai một phần tư thổ dân Châu Úc, chẳng phải giòng giống Âu Châu hoàn toàn và trong một vài lĩnh vực, quan niệm và độ nhạy mạnh hơn những người đàn ông bình thường, điều này có thể giải thích cho sự ưu tú của chàng trong việc phi hành, chiếm kỷ lục an toàn. Thế mà tối nay, ngồi trước tay lái với nỗi âu lo càng lớn dần từng phút, và khi máy bay đạt đến độ cao phi hành và giữ mức độ bay bình thường, đâu đây hình như là vùng lân cận của hồ Constance, chàng trao tay lái cho Ryder và đi về phía sau.
Trên sàn máy bay mọi vật đều bình thường. Chàng dừng lại bên bàn đồ họa của kỹ sư cơ khí, nhìn vào từng thiết bị và đọc sổ phi hành rất kỹ. Chẳng có gì đáng nghi ngờ ở đấy cả. Chàng ngồi xuống bên cạnh chuyên viên vô tuyến và nhìn lướt qua sổ điện thoại, rồi lại chăm chú nhìn vào những dấu hiệu màu xanh trên đèn cực âm điện tử và kiểm tra vị trí trên máy Decca. Chẳng có gì nghi ngờ ở đấy cả. Chàng đi qua khoang giữa máy bay và từ từ đi dọc xuống, tìm kiếm thử có cửa sổ nào bị rạn nứt làm giảm áp suất hay có thể gây hỏa hoạn, nhưng mọi vật đều qui cũ. Hai người tiếp viên nam nữ đang phục vụ ăn tối, Nữ hoàng đang ở trong khoang riêng của ngài và cửa đóng. Chàng chận cô Gillian Foster và ra dấu về phía cửa ấy :
Trong ấy bình an cả chứ ?
Cô gái trả lời :
Bình an cả, thưa ông.
Ngài dùng tối rồi ?
Thưa ông, vâng.
Có ăn được không ?
À, vâng. Ngài ăn gần hết, ngài còn uống một ly rượu vang nữa.
Chàng tiếp tục đi xuống đến cầu thang ở giữa hai dãy ghế. Rosemary nhìn thấy chàng và mỉm cười, nhưng chàng hầu như không thấy nàng. Có cái gì đấy, ở đâu đấy, có vẻ không ổn. Mắt chàng lùng sục khắp nơi, nào quạt khói, then cài cửa, nào nệm ở dưới sàn máy bay. Chàng dừng lại, đánh hơi xem thử có mùi dầu lửa không, nhưng chỉ có mùi thơm nấu ăn.
Jim Hosen đứng trong bếp nói vọng ra :
Ở đây mọi thứ đều ổn.
Cơ trưởng cho phép em dùng lò lớn hơn nhé ? – Người đàn ông ấy nói – Phục vụ một bữa ăn tối nóng sốt với một đĩa lớn và một cái lò chắc không dễ đâu ! Theo em, ta nên kiếm một cái lò lớn hơn mà dùng.
David lơ đãng trả lời và tiếp tục đi. Hai chỗ ngồi đi vệ sinh đang sạch, chàng nhìn vào từng cái một, chẳng có gì trong ấy cả. Chàng tiếp tục đi về phía sau, vào ngăn hành lý và đứng nhìn những vali chồng chất trong khoang chứa, được buộc kỹ bằng những đai nịt. Mọi thứ trông có vẻ trật tự nhưng có cái gì đó không ổn.
Hành lý là thứ chàng không kiểm tra và không ai lại đi kiểm tra hành lý của chính mỗi nhân viên phi hành. Chàng chẳng được nghỉ ngơi, chàng cũng biết thế, cho đến khi nào thấy thoải mái vì mọi thứ đã ổn định. Chàng rút từ túi áo trong ra một cuốn sổ tay và đi về phía buồng lái một lần nữa, đến bên Ryder hỏi :
Anh mang bao nhiêu hành lý lên tàu, Harry ?
Hai vali và một túi, sao anh hỏi vậy ?
Chỉ để kiểm tra thôi. Anh có dán bảng tên lên đấy chứ ?
Vali thì có. Túi dết tôi để lên trên hết, kìa !
Chàng lại tiếp tục đi từ mũi đến lái, điểm danh mọi người trên máy bay với hành lý của họ. Chàng không dám quấy rầy Nữ hoàng và Quận công, nhưng chàng hỏi các loại hành lý ấy từ các người hầu gái và nô tì. Khi chàng tiến đến bên Frank Cox, ông ta hỏi liền :
Có chuyện gì thế, Nigger ?
Chàng phi công trả lời :
Tôi muốn đếm tất cả hành lý lại. Tôi thấy chuyến bay này làm tôi khó chịu quá ! Tôi bị căng thẳng quá sức !
Frank Cox liếc nhìn chàng và đứng dậy khỏi ghế. Chỉ còn lại nam tiếp viên và nữ tiếp viên là có vấn đề và David trở lại khoan chở hành lý một lần nữa. Chàng nói với nam tiếp viên :
Giúp tôi một chút đi anh. Tôi muốn kiểm tra những vali ngoài danh sách này.
Đại tá Không đoàn trưởng đi theo hai người vào khoan hành lý và ba người bắt đầu mở và phân loại hành lý.
Mười lăm phút sau họ đi đến một kết luận không giống nhau. Có bốn vali đề tên E.C. Mitchinson thay vì ba trên danh sách.
Jim Hasen vui vẻ nói :
Chắc là bác sĩ nhầm đấy. Ông đem bốn cái mà khai có ba.
Viên phi công nói :
Đi nhanh lên và mời ông ta xuống đây để ông ta xác nhận.
Khi bác sĩ đến, David hỏi :
Kia có phải là bốn vali của ông không ?
Bác sĩ trả lời :
Cái kia không phải của tôi, cái màu xanh ấy ! Còn lại ba cái là của tôi.
Nhưng đều có tên của ông trên đó mà ! – Họ chỉ cho bác sĩ xem bảng tên.
Bác sĩ cương quyết nói :
Tôi cam đoan không phải là của tôi. Tôi chỉ đem theo ba cái thôi. Tôi chưa bao giờ thấy cái vali thứ tư này.
David nhắc vali lên, đặt nó trên sàn cầu thang và cúi xuống quan sát. Vali còn khóa. Chàng suy nghĩ một chút rồi đi vào khoang trong. Ngay trên cửa máy bay là một đoạn thép có đầu dẹp, đây là dụng cụ để mở vali bị kẹt. Thanh thép sơn đỏ, người ta để đấy mục đích là để mở cửa từ phía trong nếu bị khóa chặt vào khung cửa, khi bị méo mó vì va chạm mạnh.
 

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

Chàng lấy thanh thép và trở về chỗ chiếc vali. Chàng cạy thật mạnh hai lần và chiếc bản lề bung ra và mở nắp ra được. Phía trong vali, có vật gì đó gói trong vải bao bố, chàng đoán là vật ấy cứng. Chàng từ từ mở ra, cố giữ không di chuyển nhiều và cẩn thận cầm vật ấy bằng cả hai tay, trong lúc những người khác chen tới để xem.
Đó là một hộp bằng kim loại giống như một máy đo các múi nối có hàn bằng bạc, dài ba tấc, rộng hai tấc, dày một tấc, nặng độ bảy ký.
Chàng cẩn thận đưa lên quá đầu và nhìn dưới đáy hộp. Chẳng có chỗ mở, không có nắp. Hình như người ta cố ý hàn rất kỹ và chẳng hướng dẫn cách mở.
Chàng nhẹ nhàng để xuống trên đống vải bố trong vali.
Frank Cox nói :
Chắc là phải ném nó đi thôi, Nigger ạ !
Viên phi công suy nghĩ một chút rồi nói :
Chúng ta phải hạ thấp thôi. Chúng ta không thể vứt nó xuống biển dưới áp lực như thế này. Phải cho máy bay hạ xuống bảy tám ngàn bộ. Còn Nữ hoàng !
Chàng không thể liều cho máy bay chúi xuống để giảm áp suất ở một độ cao lớn như thế khi có Nữ hoàng trên ấy.
Phải mất bao lâu khi anh hạ độ cao ?
Mười bảy mười tám phút.
Cơ trưởng quay lui, đi nhanh về phía buồng lái và nói với người kỹ sư cơ khí và Ryder đang cầm tay lái. Động cơ ở trong tắt, động cơ ở ngoài chạy đều nhưng được điều chỉnh vòng quay để giữ áp suất trong buồng lái. Khi bộ phận hãm tốc ở cánh được sử dụng, đầu máy bay hơi chúi xuống, chiếc Ceres bay đều với tốc độ giảm ba ngàn bộ một phút.
David trở lại bàn đồ họa và nhìn vào bản đồ trong lúc chuyên viên vô tuyến cho biết vị trí chính xác bằng máy Decca. Máy bay cách tây nam thủ đô Belgrade gần một trăm dặm và đang bay qua những dãy núi độ cao hàng ngàn bộ của nước Nam Tư, qua biển Adriatic và Ionian, rồi qua Brindisi của Ý. Chàng nói với Ryder :
Lái qua hai trăm.
Và thấy máy bay trở lại bình thường. Chàng quay qua, đã có Frank Cox bên cạnh. David đưa ngón tay chỉ trên bản đồ ở giữa Ý và Hy Lạp.
Chúng ta sẽ thả nó đâu đây thôi, nếu cái vật chết tiệt ấy không nổ sớm.
Đại tá nói :
Không có tiếng động gì cả, có lẽ không phải là bom can giờ. Tôi không thấy lỗ thoát hơi nào hết, chắc có lẽ không phải là ngòi nổ phong vũ biểu, mà có lẽ là ngòi nổ axít. Axít ăn mòn miếng kim loại hay một thứ gì tương tự như thế. Nếu thế thì phải cách ly ngay, và phải rất thận trọng khi đem nó đi. Suy nghĩ nên hạ cánh ở Brindisi hay Bari hơn ?
Viên phi công ngần ngại :
Tôi đã di chuyển nó một lần rồi nhưng nó không nổ. Riêng bản thân tôi cũng phải cố gắng hết mình để đưa nó ra khỏi máy bay.
Anh định ném nó ra khỏi máy bay ở đâu ?
David nói :
Hạ bánh xe xuống và tháo rời bộ phận chắn càng trước. Như thế bánh trước sẽ không còn bị vướng. – Suy nghĩ một chút, chàng nói tiếp – Nếu hạ cánh xuống Brindisi cũng được. Tôi đã từng đáp ở đấy. Về phía đông và tây, phi đạo có hơi gồ ghề đấy ! Nhưng đã có đèn.
Frank Cox cắn môi :
Nhưng công luận thì sao !
Tôi hiểu, nhưng chúng ta phải quyết định nhanh lên ! Có thể là những tờ báo khắp thế giới sẽ đăng tin Nữ hoàng nước Anh phải đáp khẩn xuống nước Ý để gỡ quả bom đang đặt trên máy bay ngài. – David nói tiếp – Bản thân tôi đã sẵn sàng ném vật ấy ra ngoài.
Tôi không thể quyết định việc này. – Không đoàn trưởng nói – Tôi phải thỉnh ý Quận công nhưng tôi nghĩ là cũng phải đáp thôi.
Đại tá hấp tấp đi lui trong lúc David tìm nhanh những phi trường trên đường bay. Phi trường Brindisi điện đang sáng rực rỡ vì yêu cầu của máy bay đáp ban đêm và đó là thông lệ của Không lực Ý. David gọi sĩ quan cơ khí thứ hai cùng đi xuống khoang hành lý, giờ này khoang đã trống vì được tháo tấm chắn ở càng trước. David nói :
Tháo những con ốc này ra. Sẵn sàng mở nhanh khi tôi bảo. Sau khi tôi thả càng trước xuống, tôi sẽ ném một vật ra ngoài.
Chàng đi trở lui sàn máy bay; giờ này trời trong, cao độ là hai mươi hai ngàn bộ, trước mặt một cụm đèn như những ngôi sao nhỏ hiện ra trên mặt đất, ắt hẳn đó là phi trường Brindisi. Chàng quay trở lại tìm Frank Cox. Đại tá bảo :
Nữ hoàng không muốn đáp xuống. Phải ném nó ra khỏi máy bay xuống biển.
David gật đầu nói :
Tôi đã dặn anh Cummings lo mở tấm chắn để đi xuống dưới khoang hành lý.
Frank Cox nói :
Nếu anh đi xuống đấy, tôi sẽ theo liền. Chúc may mắn.
David quay qua nói với Ryder :
Lái về nam, một tám không ly giác. Hai phút nữa, chúng ta ra tới biển. Xuống thấp như thế này, giữ độ cao bảy ngàn bộ, giảm sức ép, hạ vận tốc xuống hai trăm gút. Hạ càng trước xuống. Giữ như thế cho đến khi có lệnh.
Phi công phụ nhắc lại lệnh ấy xong David mới đi nhanh qua khoang giữa đến khoang hành lý. Jim Hasen còn đứng đấy, giữ cái vali. Trông cái mặt trắng bệch của anh ta, David cười bảo :
Thế nào chúng mình cũng phải ném nó đi mà, lo gì !
Jim Hasen nói :
Em đang cầu nguyện đây, Chỉ huy trưởng ạ.
À, thế thì tiếp tục cầu nguyện thêm năm phút nữa.
Viên phi công cúi xuống, đưa cả hai tay cầm hộp kim loại ấy lên, trong lòng cứ nghĩ, không lý gì đây là kết thúc bi thảm của bọn họ ? Chàng đưa lên ngang thắt lưng, quay người đi qua khoang giữa, qua hai dãy ghế. Khi đi qua mặt Rosemary chàng nghe tiếng nói :
Chúc anh may mắn, anh Nigger nhé !
Khi đi qua khoang đặc biệt, Nữ hoàng cùng chồng đang đứng ở cửa, mặc áo khoác có hoa màu trắng. Nữ hoàng hỏi :
Vật ấy phải không, Chỉ huy trưởng ?
Chàng đáp :
Thưa ngài vâng. Vài phút nữa chúng tôi sẽ ném nó đi !
Ngài lại nói :
Ta thành thật xin lỗi tất cả các bạn. Nếu không có ta trên máy bay, đâu có xảy ra như thế này !
Chàng tiếp tục đi tới, rất thận trọng. Giá như nó nổ ở nơi nào trên phi cơ, tất cả đều chết, nhưng điều quan trọng là càng tránh xa Nữ hoàng càng tốt. Cái cửa nhỏ dưới bàn sĩ quan cơ khí trên sàn máy bay, có bản lề bằng nhôm đã được mở ra, phía bên dưới có hai dãy thang bắc vào hông tàu, rồi mới đến phòng chứa đồ, ngang một mét ba, dọc hai mét. Sĩ quan vô tuyến đứng sẵn ở đấy chờ, đón vật ấy khi David bước xuống khoang nhỏ, khi đứng vững rồi chàng đưa tay đỡ vật ấy từ chàng sĩ quan vô tuyến, anh chàng trở về bàn làm việc, mồ hôi toát ra.
Cúi xuống bên cạnh tấm chắn là Đại tá Cox và sĩ quan cơ khí Cummings. Trong ánh sáng lờ mờ, David lom khom dò từng bước một để tránh va vào một thanh sắt nào đó làm rớt cái hộp. Chàng quỳ xuống bên cạnh hai người kia, tay khư khư giữ hộp nói :
Đây rồi, có dám cá là cái vật chết tiệt này nó nổ trước khi ném đi không?
Cummings nói :
Năm ăn một.
Đại tá Cox hỏi :
Giờ đây cao độ bao nhiêu ?
David trả lời :
Tôi đâu biết. Chắc là xuống thấp lắm. Thì giờ đâu mà hỏi !
Những giây phút trôi đi thật chậm chạp, họ chờ đợi, bất động, căng thẳng. David nghĩ, nếu vận xui, nó nổ cũng nên ! Tay chàng đau nhức. Thình lình, cao độ thay đổi đột ngột làm mọi người sững sờ. David nhìn Đại tá Cox, tiếng Đại tá nói :
Trở lại vị trí cũ !
 

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

David gật đầu. Chàng quỳ bên tấm chắn, chứng kiến những giai đoạn diễn tiến của máy bay, tiếng máy rú lên khi máy bay xuống thấp. Cuối cùng khi càng trước nhả ra, có tiếng gió rít mạnh. Trong ánh sáng mờ mờ David nói với Cummings :
Mở tấm chắn ngay.
Viên sĩ quan cơ khí làm việc có bài bản, mở từng con ốc vít bỏ vào túi áo choàng. Vừa làm vừa ngâm nga một điệu tình ca. Cuối cùng tấm chắn được mở xong.
Một luồng gió mạnh ào ạt thổi vào như vách sắt, không ai đứng dậy nổi. David tay khư khư giữ cái hộp ra dấu cho Cummings đậy tấm chắn trở lại. Chàng sĩ quan phải từ từ đẩy tấm chắn về lại vị trí cũ và đứng chận ở trên ấy , nhờ trọng lượng của cơ thể và sự giúp sức của Đại tá Cox. Trong khoang đã yên tĩnh trở lại và không còn gió nữa.
Đại tá nói :
Chúng ta không thể ném qua lỗ ấy, nó bay ngược trở lên đấy, Nigger ạ !
Viên phi công suy nghĩ nói :
Không hiểu gió vào rồi thoát ra đường nào mà mạnh thế !
Cuối cùng chàng hiểu ra là, khi hạ áp suất, có lẽ Ryder quên không đóng cửa sổ bên cạnh chỗ ngồi, nên gió vào phải tìm đường ra đâu đó. Chàng lưu ý Đại tá Cox rồi nói :
Nếu chúng ta đóng cửa sổ lại, xem thử có kẻ hở nào nữa không và cho máy bay chậm lại, chúng ta có ném vật đó ra khỏi máy bay được không ?
Trong lúc bay chậm, máy bay chỉ cân bằng được một chút rồi cũng bị chúi xuống nên phải tăng vận tốc trở lại.
Chàng phi công nói :
Anh phải thỉnh ý Nữ hoàng, có khi ngài thay đổi ý kiến và cho đáp cũng nên !
Chắc không được đâu ! Có lẽ ngài sẽ bảo bay tiếp thôi. Ngài không muốn hạ cánh nơi đâu ngoài Liên hiệp Anh.
David nói :
Có Malta. Chừng năm mươi phút nữa, chúng ta có thể đáp xuống đấy !
Đại tá Cox yên lặng và David lấy làm tiếc là tại sao Đại tá không quyết định cho rồi. Cuối cùng Đại tá nói :
Chúng ta phải bay chậm lại, anh Nigger. Tự mình anh phải lái và cho Ryder ra sau để thông báo cho các bạn sắp xếp mọi việc. Nếu không thể ném vật đó ra khỏi máy bay, tôi cũng chịu thôi. Trong tình huống ấy, chúng ta sẽ đáp ở Malta.
David nói :
Thôi được. Tôi không thể báo trước cho Đại tá được. Tôi sẽ cho máy bay bay lên thình lình. Khoảng ba mươi độ. Đại tá cố ném ra ngoài nhé ! Nếu trường hợp bị kẹt, Đại tá phải đứng chắn ở đây. Máy bay sẽ bị chúi xuống sáu bảy mươi độ và sẽ bị nghiêng đấy !
David đi thẳng lên buồng lái, mở cánh cửa dưới ghế của kỹ sư cơ khí để kiểm tra luồng gió thổi vào khi cất tấm chắn càng trước, thêm một người nữa để phụ cho Đại tá Cox giữ cho vững. Chàng đi đến bên Ryder xem thử cửa sổ bên cạnh tay lái đã đóng chưa. Chàng thảo luận với Ryder một chốc, sau đấy Ryder đi ra đàng sau và ra lệnh cho mọi người phải nịt dây an toàn và cũng giải thích cho Quận công và Nữ hoàng tại sao phải làm thế. Chàng ngồi vào tay lái, buộc thắt lưng an toàn và tắt tất cả đèn đóm trong khoang và bật các ngọn đèn mờ lên để làm việc. Chàng cho động cơ chạy mạnh hơn và đưa máy bay lên chín ngàn bộ.
Ryder trở về chỗ cũ bên cạnh David.
Sau đấy mọi thứ đều ổn và sẵn sàng cả chứ ?
Đã ổn, thưa Cơ trưởng.
Được. Đừng *****ng đến tay lái cho đến khi có lệnh của tôi.
Hai phi công ngồi cùng nhau trong ánh sáng mờ và nhìn ra ngoài đêm tối. Họ đang bay trong hai lớp mây, lâu lâu lại có ánh sáng trăng nhợt nhạt rọi vào bên tay phải, nhưng chẳng thấy đường chân trời và chẳng dựa vào đâu mà đoán cao độ trừ những con số trên máy. David cho máy bay bay chừng chừng và ra hiệu cho Frank Cox và Cummings biết là chàng sắp thực hiện việc bay chậm và để cho họ có đủ thời giờ mở tấm chắn.
Khi chàng ngồi ở đấy, trong khung cảnh tranh tối tranh sáng, cố tập trung tư tưởng, nhìn ra ngoài chân trời phía trước mặt và nhìn vào con số không trên mặt la bàn xoay, chàng nhớ lại một kinh nghiệm mà trước đây trong lần bay thử nghiệm khó khăn, chàng đã được mọi người hoan nghênh.
Tất cả những sự kiện đó như hiện rõ trước mắt chàng. Cũng bầu trời ấy mà đường chân trời đã phân cách làm hai, phần trên xám nhạt đó là bầu trời, phần dưới tối hơn, đó là mặt đất. Và cũng từ đấy, chàng thấy chiếc máy bay trải dài trước mắt mình với đầy đủ các bộ phận và thiết bị.
Trong một giây, chiếc Ceres phóng lên theo góc độ thẳng đứng, hầu như đứng trên đuôi của chính nó. Không thể tưởng tượng được khi một chiếc máy bay dựng đứng như một con cá sắp bay lên khỏi mặt nước. Rồi đầu máy bay chúc xuống, cũng theo chiều thẳng đứng, với tốc độ kinh hồn. David mặc cho máy bay quay cuồng, chàng bình tĩnh kéo tay ga và qua bao nhiêu giai đoạn, máy bay từ từ trở lại chiều ngang, các động cơ giảm tốc và tốc độ bình thường trở lại ở cao độ năm ngàn bộ. Quay qua Ryder, David nói :
Giữ cho máy bay ở tốc độ hai trăm ba mươi gút. Tôi đi xem thử ở dưới ấy đã xảy ra như thế nào ?
Chàng bước ra khỏi ghế và đến mở cánh cửa nhỏ dưới bàn sĩ quan cơ khí. Đại tá Không đoàn trưởng đang đứng dưới khoang nhỏ, đang cố trèo lên sàn máy bay.
Đại tá nói :
Nó rớt xuống nhẹ nhàng. Nếu còn vật nào nữa cũng bay ra nốt, chứ không thể bay vào đâu ! Tôi đã ném được trước khi anh cho máy bay giảm tốc và phóng xuống.
Đại tá có thấy gì xảy ra khi nó chạm mặt đất không ?
Frank Cox trả lời :
Chúng ta bay trong mây dày đặc, thấy gì được.
Frank Cox phủi quần áo đứng dậy nói :
Tôi sẽ đi tin cho các ngài mọi chuyện đã qua.
David nói với sĩ quan cơ khí :
Ta trở lại độ cao phi hành, và tìm đường bay mới đến Ratmalana. Chúng ta đã xài nhiều nhiêu liệu quá rồi !
Frank Cox đồng ý :
Cứ tiếp tục. Tôi cùng đi với anh kiểm tra xăng dự trữ. Tôi cũng cần giải khát.
David nói :
Giờ thì mọi sự đã qua.
Anh ăn tối chưa ? – Frank Cox hỏi.
Chưa, nhờ anh nói với cô Gillian cho tôi ăn với !
 

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

Chàng trở về ghế ngồi nhưng trao tay lái cho Ryder để nghỉ ngơi một chút, mệt mỏi về chuyện căng thẳng vừa rồi. Chàng nhìn Ryder và sĩ quan cơ khí đang đưa máy bay lên cao và vượt lên những đám mây, giờ này ánh trăng khuya còn chiếu ánh sáng về phía bên phải. Một chốc sau đã thấy cô Gillian mang thức ăn đến với ly cà phê nóng. Ăn xong chàng thấy trong người đã khỏe. Sau khi kiểm tra nhiên liệu với Frank Cox, chàng định hạ cánh xuống Bahrein để tiếp tế, nhưng nghĩ lại máy bay còn nhiều xăng dự trữ nên quyết định đến Colombo. Frank Cox ngồi vào tay lái thay cho Ryder đi nghỉ, David đi ra sau kiếm thêm ly cà phê nữa.
Cửa buồng Nữ hoàng và của Quận công đã đóng, nhưng Rosemary còn thức, chàng đến bên nói đùa :
Vui quá em nhỉ ? Thế mới biết đời là đáng sống !
Nàng nhích sang một bên để chỗ cho chàng ngồi :
Ngồi ghé một chút đi anh, Nigger. Hay anh muốn trở về ?
Chàng ra hiệu cho cô tiếp viên mang đến một ly cà phê và ngồi xuống cạnh Rosemary:
Khi máy bay mất thăng bằng, phía sau này thế nào, có ai rớt ra khỏi ghế hay bị thương gì không ?
Rosemary lắc đầu :
Anh Ryder và anh Jim Hasen đã kiểm tra tất cả mọi người đều thắt dây an toàn và sắp xếp lại các vali bị rớt ra. Em nghĩ là chị Fethers bệnh đấy. – Cô Fethers là người hầu gái của Nữ hoàng.
Chàng nói :
Tội nghiệp ! Lúc anh trở về buồng lái, anh sẽ ghé qua nói vài lời an ủi. Chỉ có cách đó mới loại vật ấy ra khỏi máy bay. Nếu không có cái cửa ấy thì cũng phải tìm sau đuôi, chỗ nào đó để ném ra. – Chàng nhắp một chút cà phê rồi nói – Em có mệt không ?
Nàng gật đầu nói :
Khi đâm bổ xuống, máy bay phải quay vòng vòng, hả anh ? Thật kỳ cục!
Chàng trả lời :
Cũng có chao đảo một chút, nhưng phi hành đoàn đã quen nhiều với công việc ấy rồi ! Họ cũng chẳng hề hấn gì miễn là em thông cảm cho họ.
Chàng ngồi với nàng một lúc, lưu luyến nắm bàn tay nàng nói :
Cố mà ngủ một chút đi em ! Vài giờ nữa là trời sáng rồi ! Trong một ngày mà biết bao chuyện làm em sửng sốt ! – Nàng mỉm cười với chàng, sau đó chàng trở về buồng lái, có dừng lại để nói vài lời với cô Fethers.
Trong đêm tối họ bay qua Nicosia, Beiruct và Barsa và tiếp tục bay về phía vịnh Ba Tư, đi qua Bandar Abbas. Khi thấy rõ vịnh Oman, bầu trời sáng lên trước mặt họ và bốn mươi phút sau, mặt trời lên khi qua biển Ả Rập. Từ đây đến Colombo, chỉ cần giữ độ cao vừa phải, David có thể uống cà phê và ăn bánh qui.
Đang ăn trong buồng lái, thì Frank Cox đi đến nói :
Nữ hoàng sẽ đến đây sau khi ngài đã nói chuyện với phi hành đoàn và tiếp viên ở khoang giữa. Ngài muốn nói chuyện với các anh ở nơi này. Tôi sẽ đưa ngài tới. Nói cậu nào đang ngủ thì thức dậy đi ! Tất cả phải tề chỉnh. Năm phút nữa, ngài sẽ đến.
David ra khỏi ghế, nhường cho Frank Cox tay lái. Hai người trao đổi về đường bay và tốc độ hạ cánh : chỉ trong vài phút, quân phục phải tề chỉnh và cánh cửa dịch mở, Nữ hoàng và Quận công hiện ra. Khoang kề buồng lái rất nhỏ mà cũng chứa được tám người. Nữ hoàng đứng cạnh David, chàng phải nhường cả khoảng trống lại cho ngài và đầu ngài chưa tới vai chàng.
Giọng Nữ hoàng trong và rõ ràng :
Trước hết, ta muốn cám ơn tất cả các bạn đã làm được công việc vừa rồi. khi Chính phủ Liên bang đầu tiên đề nghị tặng ta chiếc máy bay này và đưa vào sử dụng trong phi đội và nói rằng việc điều hành là do một phi hành đoàn Úc, ta nghĩ rằng sẽ được đi trong những chuyến bay an toàn. Điều đó giờ đây đã được chứng minh. Ta không nghĩ rằng ta có thể nói hết ý mình nhưng có một điều là ta thành thật cám ơn các bạn với cả tấm lòng. – Ngài ngừng một chút rồi nói tiếp – Và đây là mệnh lệnh của ta cho các bạn. Các bạn không được nói với ai là máy bay này đã bị gài bom. Không được hở môi cho bất cứ ai, kể cả vợ, lẫn người yêu, và cũng không được bàn tán với nhau. Coi như đã quên. Đây là lệnh truyền của Nữ hoàng cho các bạn và không ai có quyền phạm phải, ta sẽ xử phạt rất nghiêm khắc. Thế giới bên ngoài chiếc máy bay này sẽ không biết chuyện gì xảy ra cho chuyến bay này.
Nữ hoàng cười nói :
Bây giờ là bằng hữu với nhau vì các bạn đã cứu sống ta, ta thú thật cho các bạn biết điều này. Ta đã bị mưu sát hai lần từ khi ta lên ngôi cách đây ba mươi năm và đây là lần thứ ba. Đây là một trong những rủi ro nghề nghiệp của ngai vàng nước Anh, hay bất cứ một ngai vàng nào khác mà những người dân tội nghiệp, thiếu thăng bằng, mất trí nghĩ rằng những bạo loạn của họ sẽ được người ta chỉnh lý nếu họ có thể hủy diệt được Vương triều. – Ngài nói tiếp – Qua hai ví dụ trước về kinh nghiệm bản thân, ta chẳng cảm thấy gì ngoài sự tiếc nuối cho những kẻ đã rắp tâm ám sát ta, khi những trường hợp như thế bị điều tra và bại lộ. Điều đó luôn luôn trùng lắp, bởi vì kẻ ám sát thuộc lĩnh vực chính trị không bao giờ trở thành mốt đối với Khối Thịnh vượng Anh.
Nhìn những khuôn mặt trẻ bao quanh, Ngài nói :
Ta tin chắc rằng sự thử thách vừa rồi đối với cuộc sống của ta và các bạn sẽ chứng tỏ cho công việc làm của một kẻ khốn khổ nào đó muốn đánh động tình thương của chúng ta. Rủi thay nó lại đến vào lúc sóng gió của nước Anh khi những cảm nghĩ đã biến thành quá độ. Nó không yểm trợ cho nước Anh lấy lại sự quân bình mà điều hiển nhiên là đưa ta vào chỗ thử thách. Hơn nữa, những sự chia rẽ phe nhóm tưởng có thể hóa giải trong một vài ngày lại trở nên quá trầm trọng, làm thiệt hại cho nước Anh, làm thiệt hại cho Khối Thịnh vượng Anh. Do đó, nhân danh Nữ hoàng ta truyền lệnh cho các bạn phải tuyệt đối giữ kín công việc vừa rồi. Và sự bí mật này được giữ kín cho đến khi ta chết. – Nữ hoàng cười nhợt nhạt – Sau đấy các bạn muốn nói gì thì nói.
Nữ hoàng nhìn David :
Cơ trưởng có hiểu như thế không ?
Thưa Ngài, hiểu. Tôi sẽ không nói đâu.
Ngài nhìn Ryder :
Còn anh thì sao, Cơ phó ?
Và cứ thế ngài đi từ người này đến người khác với câu hỏi trực tiếp ấy và David rất ngạc nhiên là ngài biết tên tất cả số anh em ấy.
Cuối cùng ngài cười và nói với tất cả :
Thế là xong, trừ một điều là cám ơn tất cả các bạn một lần nữa. – Và ngài nhìn David nói – Cơ trưởng, xin mời em đến phòng riêng của chúng tôi.
Chàng đi theo Nữ hoàng trở về buồng riêng của ngài. Quận công vào trước rồi đến lượt David, xong hai ngài đóng cửa lại. Nữ hoàng nói :
Trong tất cả phi hành đoàn, chúng tôi cảm thấy cần đặc biệt cám ơn Cơ trưởng về sự chu đáo và trực giác đã đưa đến việc khám phá ra mối hiểm nguy và kỹ năng điều khiển chiếc máy bay vừa rồi. Ta suy nghĩ mãi làm cách nào để ngợi khen Cơ trưởng tốt nhất. Thông thường, ta chỉ cần trao tặng Không lực Anh dũng bội tinh, vì có hành động gan dạ, xã thân vì nhiệm vụ không sợ kẻ thù, nhưng ta thấy Cơ trưởng đã có rồi và nếu mang thêm một Anh dũng bội tinh của Không lực nữa thì có hơi bất thường làm cho người ta thắc mắc.
David trả lời :
Thưa ngài, phải. Trường hợp như thế rất hiếm.
 
Top