Mùa mưa_Nevil Shute

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

Nữ hoàng lại nói :
Vì vậy, chúng tôi quyết định tưởng thưởng công lao của Phi đội trưởng bằng cách tuyên dương công trạng của bạn đối với nước Úc hơn là các bạn khác vì nó chứng tỏ cho chúng tôi thấy rằng sự thông minh và nhạy cảm rất xứng đáng được tưởng thưởng như thế. Chúng tôi tin tưởng rằng phẩm chất của bạn đã biểu lộ, sẽ là giá trị của những vấn đề quốc gia, khác với chuyện phi cơ và phi hành. Vì vậy, chúng tôi sẽ lưu ý bí thư của chúng tôi thảo một Nghị định Hoàng gia do chúng tôi ký và cấp cho bạn quyền bầu cử thứ bảy đối với chính phủ Liên bang Úc để sử dụng trong các cuộc bầu cử của chính quyền ở bất kỳ tiểu bang nào mà bạn cư ngụ. Làm như thế để tỏ lòng biết ơn bạn từ nơi đáy lòng của chúng tôi.
Nữ hoàng đưa bàn tay ra, lòng bàn tay úp xuống, David đoán ra ngài định làm gì, cúi xuống thật thấp và hôn bàn tay một cách vụng về.
Họ hạ cánh ở Ratmalana thuộc Tích Lan vào lúc chín giờ, giờ địa phương. Toàn quyền và một nhóm chính trị gia cùng Tiểu đội Danh dự đã có mặt trên sân bay để chào đón Nữ hoàng. Ngài bước xuống máy bay trông tươi mát như đóa hoa cúc, mỉm cười bình tĩnh, người đàn bà mệt mỏi, lo lắng đã biến mất. David ngạc nhiên thấy Nữ hoàng có thể làm được như thế, trong lúc sự căng thẳng mà Hoàng gia đang bị áp đặt, nhưng chàng cũng phải suy nghĩ về những điều khác nữa. Trong lúc Nữ hoàng đang trò chuyện với các nhà chính trị Sri LanKa và trong lúc nhiên liệu đang tiếp tế, David ra lệnh đem tất cả hành lý ra khỏi máy bay, kể cả công tây nơ đựng thực phẩm cũng như các thiết bị. Khi tất cả những thứ này đang nằm trên đường băng dưới bóng im của cánh máy bay, chàng đã cùng với Frank Cox và Dick Ryder đi kiểm tra hết chiếc máy bay. Sau nửa tiếng đồng hồ làm việc, họ mới yên lòng. Rồi, mỗi hành lý khi được mang lên máy bay, họ đã mở ra lục soát nhờ sự giúp sức của chủ nhân như là đã kiểm tra, trước khi bỏ vào khoang hành lý. Cuối cùng, họ sẵn sàng cho máy bay cất cánh, họ đã làm như thế để ngầm hiểu rằng máy bay không còn những vật làm mọi người thấp thỏm nữa.
Họ cất cánh vào lúc mười giờ rưỡi, giờ địa phương, phải ở lại trên đất lâu hơn thường lệ vì phải làm công việc này. Trong năm giờ đồng hồ họ bay trong ánh mặt trời gay gắt, chói chang dưới bầu trời xanh trong, chẳng có gì trước mặt trừ sự xuất hiện đột ngột của biển xanh phía dưới. Tất cả đoàn người đã mệt mỏi vì sự căng thẳng trước khi bay và giờ là sự bình tâm của những xúc động ở giai đoạn đầu. Nữ hoàng và phu quân đang ở trong khoang, có lẽ đang nghỉ ngơi. Những người khác đang ngủ gà ngủ gật trong ghế ngồi mở ra, trông cho cuộc hành trình kết thúc. Ngay cả trong buồng lái, sự bình tâm cũng đã trở lại. Chính Cơ trưởng cũng buồn ngủ, ngay khi độ cao phi hành đã đạt chàng cũng muốn ngủ một giờ trên giường bay.
Họ bay qua bờ biển miền tây Úc vào lúc ba giờ rưỡi, giờ Colombo, nhưng trời đã tối ở Úc, ngay khi bắt đầu qua sa mạc, mặt trời lặn sau lưng họ và ngàn sao xuất hiện. Họ tiếp tục bay trong ánh sáng trăng vừa mọc và giờ này David uống hai viên Benzedrine, và cho cả phi hành đoàn cùng uống. Bữa ăn dọn ra cho qua giờ và sau khi mặt trời lặn ba giờ, họ bắt đầu hạ độ cao và chấm dứt bằng vòng bay quanh phi trường Fairbairn của Canberra. Vào lúc nửa đêm, giờ địa phương, họ thấy được ánh đèn thành phố trước mặt khi tiến gần đến độ cao bảy ngàn bộ, cẩn thận đối những dãy đồi chung quanh, họ cho máy bay lượn sát xuống phi trường điện sáng và xuống dần hai ngàn bộ một phút. Mười hai giờ mười bốn phút David từ từ cho máy bay hạ xuống đúng phi đạo.
Có vài chiếc xe hơi đang đợi chờ họ trên sân bay, chỉ vài chiếc thôi, vì tin Nữ hoàng đến không được phổ biến. Toàn quyền có mặt ở đấy để đón ngài và Thủ tướng Hogan nữa, nhưng tất cả đều trong vòng thân mật, và sau một vài phút nói chuyện với họ, Nữ hoàng cùng phu quân lên xe về Tharwa. Những người còn lại trong đoàn tùy tùng cũng trở về Hoàng cung với hành lý trên một chiếc xe buýt nhỏ, trong lúc David và Ryder đi taxi đến nhà chứa máy bay của Phi đội Nữ hoàng thì thấy chiếc máy bay đã được kéo vào trong an toàn.
Các thành viên trong phái đoàn Hoàng gia đã được đặt chỗ trước ở Khách sạn Canberra. Khi David lái chiếc xe đến đây thì đã thấy phi hành đoàn của chàng có chỗ ăn ở vào lúc một giờ rưỡi sáng. Ở Canberra trời nóng nực và hàn thử biểu lên tới chín mươi độ, ban đêm thì ấm và có mùi thơm dịu dàng của cây bạch đàn và cây keo tây. Chàng lễ mễ khiêng cái vali bước lên tầng cấp để vào phòng khách của khách sạn thì đã thấy Rosemary ngồi đợi chàng giữa những bàn ghế trống trải. Một cây Giáng sinh lớn có trang trí những chùm tuyết giả đứng giữa phòng bên cạnh Rosemary.
Nàng nói :
Chúng ta lại trở về những căn phòng như trước đây, anh Nigger ạ ! Em đã nhận phòng rồi và chế được hai chai nước chanh nhờ có tủ đá. Em nghĩ là anh cũng muốn uống chút gì, phải không ?
Chàng nói :
Em đừng nên thức khuya như thế !
Giờ này mà nói đi ngủ, chắc em không ngủ được đâu ! Có lẽ nên ra ngồi ngoài vườn cho thoáng một chút, cho đến khi buồn ngủ.
Chàng gật đầu :
Thôi để anh đem cái vali vào đã ! và rửa cái mặt. Năm phút nữa, anh sẽ ra với em.
Khi chàng trở ra thì thấy nàng ngồi trong góc vườn, có tiếng nước phun ri rỉ từ một vòi nước ai đã để chảy suốt đêm. Chàng ngồi xuống bên cạnh, nhận ly nước từ tay nàng nói :
Giờ chúng ta lại ở bên nhau, em nhỉ ?
Cô gái dịu dàng nói :
Cũng khó mà tin được ! Vì cả hai chúng ta sống cách trở và chuyện xảy đến quá dồn dập. Chỉ mới ba tuần thôi mà chúng ta đã trở lại nơi đây. Và mọi vật chẳng có gì thay đổi, trong lúc này ở nước Anh lại có quá nhiều sự đổi thay, anh David nhỉ ?
Chàng trả lời :
Nơi đây thật êm ả, đã xa lìa mọi kích động và cảm xúc, không còn lo nghĩ phải làm sao để có đủ tiền bạc, nơi đây con người có thể ngồi suy tư. – Quay về phía Rosemary, chàng nói – Đến nước Anh để có những kinh nghiệm tuyệt vời và hòa mình vào những công việc lớn, nhưng khi đã làm xong, đây là nơi tốt nhất để thư giãn.
Cô gái chậm rãi nói :
Em tin rằng đấy cũng là ý kiến của Nữ hoàng. Em cũng không chắc tại sao Nữ hoàng lại thích ở đây.
Quay qua David nàng hỏi :
Hôm nay là thứ mấy anh nhỉ ?
Chàng suy nghĩ một chốc rồi nói :
Ngày Giáng sinh là thứ hai. Hôm nay là sáng thứ Tư.
Thế thì chiều nay ngài Tom Forrest sẽ đọc diễn văn trên đài. Chúng ta có thể nghe được không ?
Được chứ. Buổi nói chuyện sẽ được truyền thanh lại trên làn sóng ngắn. Đài phát thanh Úc Đại Lợi sẽ có trong chương trình. Ông ta nói lúc mấy giờ.
Vào lúc chín giờ, sau bản tin.
Như thế sẽ là bảy giờ sáng mai ở đây. – Chàng trả lời.
Thế hả anh ? Chúng em có thể nghe ở đây được không ?
Để anh xem đã. Nếu có thể anh sẽ mượn cho một cái radio xách tay. Chuyện có quan trọng lắm không ?
Nàng gật đầu :
Hình như ông ta bị Ba em luôn ám ảnh trong đầu. Em không biết là ông ta sẽ không nói những điều gì vì hiện tại ông ta bị bỏ lại một mình và đang nắm quyền.
Có lẽ cũng chẳng có gì đáng ngại.
Nàng từ tốn nói :
Anh nói đúng. Đã đến lúc phải nói thật cho dân chúng biết.
Hai người lại ngồi trong bóng tối tĩnh lặng, không nói lời nào, chỉ lắng nghe tiếng nước chảy rì rào. Sau đấy nàng nói với chàng :
Thôi, chúng ta đi ngủ, anh David nhé ! Ắt hẳn anh cũng đã mệt mỏi lắm rồi ! – Nàng đứng dậy nói – Đi nào ! Không lý anh lại ngủ ở đây sao ?
Chàng cũng đứng lên theo nàng :
Anh lớn rồi, đâu cần ai ru cho mình ngủ nữa !
Nàng nhìn đồng hồ hỏi :
Mấy giờ rồi, anh nhỉ ? Em còn xài giờ Luân đôn.
 

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

Chàng cười :
Anh đâu biết, giữa đêm giữa hôm như thế này biết là mấy giờ ! Có lẽ nên đi ngủ thôi, em nhỉ ?
Nàng nói :
Ngủ đến ngày mai luôn anh ạ ! Em cũng sẽ đi ngủ thôi. Ngài nói chẳng cần ai trong chúng ta ở Tharwa cho đến ngày mốt, tức là thứ Năm.
David suy nghĩ nói :
Vào thời điểm ấy, ngài sẽ nghe ông Tom Forrest phát biểu. Ngài có biết ông ta sẽ nói gì chăng ?
Chắc không đâu ! Thường thường ngài chẳng biết một vị Toàn quyền sẽ nói gì, ngay cả các chi tiết.
Chàng cầm tay nàng, dịu dàng nói :
Thôi đi ngủ đi em. Chẳng hơi đâu mà suy nghĩ những gì sắp xảy ra ở cách đây những mười hai ngàn dặm.
Cô nàng lập lại :
Chẳng hơi đâu mà suy nghĩ, – quay qua phía David, Rosemary nói – Khi tìm ra vật ấy trên máy bay, anh có sợ không anh ?
Chàng trả lời :
Cũng có, em ạ ! Cứ nghĩ rằng tất cả chúng ta sẽ chết.
Nàng gật đầu :
Chắc anh lo nghĩ nhiều lắm nhỉ ?
Chàng trả lời :
Lo lắm em ạ !
Nàng nép vào người chàng nói :
Em thì không. Em cũng không chắc là ngài có lo nghĩ hay không nữa. Lúc này đáng buồn thật ! Mọi sự đang thay đổi và tan ra như cám ở nước Anh. Đôi khi em cảm thấy không còn muốn gặp ai nữa cả.
Chàng nói :
Anh thì phải lưu tâm tới mọi việc. Nếu Nữ hoàng bị mưu sát trên máy bay của chính anh, như thế là do lỗi lầm của anh. Anh là Cơ trưởng, anh phải chịu trách nhiệm. Anh không muốn chết như thế. Còn điều này nữa…
Điều gì hả anh ?
Chàng nhìn nàng cười :
Nếu anh chết, làm sao có thể cưới em được và bắt buộc em phải cho anh một gia đình. Mà điều này thì anh đang còn hy vọng thực hiện một ngày nào đó.
Anh nói gì gì đâu ạ ! – Nàng dụi đầu vào ngực chàng và ngửa mặt lên đón nhận chiếc hôn. Cuối cùng nàng nói – Em nghĩ chuyện ấy cũng không lâu đâu. Có lẽ ngài chỉ ở lại đây lo công việc chừng sáu tháng thôi. Nếu sự việc đúng như vậy, em có thể xin thôi việc mà không làm phiền đến ngài.
Chàng cúi xuống hôn nàng một lần nữa và nói :
Đối với anh, điều đó không thể sớm hơn được !
Rồi hai người, tay trong tay, dắt nhau về đến cửa phòng ngủ rồi lại hôn nhau trên lối đi. Rosemary nói :
Chúc anh ngủ ngon, anh David. Em không mời anh vào đâu nhé ! Em còn là đệ tử của Ngài thì chưa đâu nhé!
Chàng cười :
Thôi mà ! Ráng mà đi cho vững, đừng ra yết thị nữa !
Nàng cũng cười :
Chúc anh ngủ ngon, anh Nigger thương yêu.
Chúc em ngủ ngon, Rosemary. Ngủ ngon nhé !
Chàng không gặp nàng nữa trước khi ra sân bay sáng hôm sau vào lúc mười giờ để làm việc kiểm tra thường lệ và tiếp tế nhiên liệu cho máy bay. Trong phòng ăn sĩ quan Không lực Hoàng gia Úc, chàng cầm tờ Thời báo của Canberra, trên trang nhất những đề lớn màu đen nói về bài phát biểu của Nữ hoàng vào dịp lễ Giáng sinh, về chuyến đi của ngài đến Úc, về việc chỉ định ông Tom Forrest và về những hậu quả chính trị của nước Anh. Trong phòng ăn, chàng nhận ra rằng các sĩ quan đang nói chuyện bỗng ngưng ngay lại khi chàng bước vào phòng trước và mọi người cố tránh không hỏi chàng một câu hỏi nào. Đó là một bầu không khí nặng nề, ngượng ngùng và dùng trưa xong, chàng đi liền để thấy nhẹ nhõm tâm hồn. Chàng trở về nhà chứa máy bay để làm thủ tục giấy tờ liên hệ đến chuyến bay, sau đó chàng lên một trong hai xe hơi biệt phái cho Phi đội Nữ hoàng để trở về khách sạn.
Rosemary đi vắng và chàng chẳng tìm được nàng, cho đến lúc chàng đang ngồi trong phòng khách, đợi giờ ăn tối, thư giản trong bộ đồ nhiệt đới rộng thùng thình, bên cạnh cây Giáng sinh lớn có trang trí những chùm len giả tuyết. Nàng hiện đến tươi mát nói :
Em đi tắm với cô Gillian. Lội thật đã, anh ạ ! Anh về đã lâu chưa ?
Chàng trả lời :
Anh về đến đây lúc bốn giờ. Đã kiếm ra cái đài. Ông ta sẽ nói trên đài lúc bảy giờ mười lăm sáng mai, giờ Úc. Em muốn nghe ở đâu ?
Nàng trả lời :
Đừng ở chỗ đông người anh nhé ! Có lẽ chúng em bị cú sốc cũng nên !
Chàng nhướng đôi mày ngạc nhiên hỏi :
Thế cơ à !
Em cũng chẳng biết. Ông ta là người cứng rắn và ba em thì nhồi nhét cho ông ta quá nhiều tư tưởng. Thôi nghe ở phòng em hay phòng anh gì cũng được, anh Nigger ạ ! Em sẽ dậy trước giờ ấy.
Chàng gật đầu :
Tốt thôi. Anh sẽ đem máy đến phòng em sau bảy giờ một chút. Đêm nay em muốn làm gì nào ?
Nàng nhỏ nhẹ trả lời :
Chúng ta hãy làm một việc gì đó để thư giãn tâm hồn. Cố mà nghĩ đến những điều khác nữa đêm nay.
Em thích đi xinê không ?
Chắc là nóng dễ sợ, anh nhỉ ?
Đâu có, – chàng trả lời – Có rạp chiếu phim ở ngoài trời. Có lẽ em nên mang theo áo choàng, trời ở đây buổi tối thường lạnh dầu sau một ngày nóng nực như thế này. Chúng ta đang ở trên độ cao hai ngàn bộ mà em !
Nàng nói :
Em chưa bao giờ xem chiếu phim ở ngoài trời, thế họ chiếu phim gì vậy anh ?
Vivienne Walsh và Douglas Mason trong phim Ước vọng của con tim – chàng nói – Anh không nghĩ đây là phim hay nhất.
Nàng nói :
Vivienne Walsh cũng khá lắm ! Cứ xem thử đi anh. Nếu dở quá thì chúng mình đi ra, có sao đâu !
Chàng trả lời :
Anh không nghĩ người ở đây làm như thế đâu. Anh cho đó là thói quen của người Úc gốc Anh. Có lẽ chúng ta sẽ mang tiếng là khinh người. Douglas Mason người ở thành phố Adelaide. Tài tử địa phương chắc cũng không đến nỗi tệ.
Nàng cười :
Thôi thì đi nhé !
Thế nên hai người đã đi xinê, sau khi ăn tối và cả hai ngồi nắm tay nhau trong bóng đêm giá lạnh dưới bầu trời đầy sao, trong lúc mối tình lãng mạn của người Cali đang diễn ra trước mắt họ. Hai người ngồi như thế trong niềm vui mộc mạc, cách ly khỏi những giây phút của các biến chuyển trọng đại đang diễn ra ở bên kia địa cầu giá lạnh, bão tuyết của Luân đôn vào tháng Chạp. Khi tay trong tay trở về khách sạn, những ý nghĩ ấy vẫn còn trong tâm tư hai người, trong bóng đêm ngạt ngào hương hoa. Chàng hôn nàng và chúc ngủ ngon trước cửa phòng ngủ.
Sáng hôm sau, lúc bảy giờ, chàng đi qua phòng nàng, ăn mặc chỉnh tề, tay xách cái radio mà chàng đã nghe thử trước ở phòng ngủ của chàng. Nàng cũng ăn mặc xong và đang đợi chàng, căn phòng còn thoảng thoảng mùi nước hoa “ân tình” (intimate), rơi rớt trên giường vừa mới ngủ, trên quần áo ngủ bỏ lại trên nệm và hương phấn còn tỏa nhẹ trong không gian. Chàng nén lòng và cố lãng quên bằng cách đặt radio xuống và vặn đài lên. Chàng nói :
Vài phút nữa, ông ấy sẽ phát biểu. Đài đã thông báo là lúc sáu giờ ba mươi và bảy giờ sẽ thông báo lại.
Nhạc mở đầu vang lên cả căn phòng, chàng điều chỉnh cho vừa đủ nghe và ngồi xuống chờ đợi. Giờ đây, sau lời giới thiệu, một giọng nói mạnh, hơi chối tai của Nguyên soái, người xuất thân từ thợ giặt ủi, vang lên trong phòng.
Họ ngồi yên lặng lắng tai nghe. Việc tiếp vận cũng khá tốt, tuy thỉnh thoảng tiếng nói có lúc như bị nghẹn, chứng tỏ phát thanh viên ở xa quá bên kia địa cầu.
Rosemary bất thần nói :
Sao ông ta làm như vậy được ! – Và David trả lời – Ông ta đã làm rồi! – Sau đấy hai người trở lại im lặng.
Hai mươi phút sau, giọng nói trầm trầm ấy ngừng hẳn và David tắt radio. Chàng nói :
Thế là xong. Ông ta cũng cải cách về bầu cử đấy chứ !
Rosemary phản đối :
Ông ta không có quyền phát biểu như thế ! Nước Anh là Khối Thịnh vượng Anh. Ông ta có quyền gì mà đề nghị các nước khác làm mà không có nước Anh.
 

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

Chàng dè dặt trả lời :
Ông ấy có nói như thế đâu !
Nàng giận dỗi nói :
Ý của ông ta là như vậy đấy ! Ông ấy đã từng nói nếu họ không làm được gì cho việc cải cách bầu cử, họ sẽ không bao giờ gặp mặt Nữ hoàng nữa. Họ chẳng cần phải nói như vậy về việc bầu phiếu kín và quyền đầu phiếu của phụ nữ.
David cười :
Chắc chắn ông ta đã nói hơi quá lời. – Một phút sau chàng mới nói tiếp – Em có để ý đến cách nói của ông ta khi dùng từ “Tôi đã triệu tập Quốc hội của tôi để họp vào ngày thứ hai”, Quốc hội của ông ta, có thật thế không ?
Nàng vẫn còn hằn học :
Em nghĩ đó là một sự xúc phạm trắng trợn. Quốc hội của Nữ hoàng chứ đâu phải của ông ta.
Ông ta là người đại diện Nữ hoàng.
Dừng một chút, nàng nói tiếp :
Trên mặt pháp lý, có thể là ông ấy đúng, nhưng đấy không phải là điều được nói ra. Ông ta không phải là vua, nên không có quyền nói như vua. – Và rồi nàng nói tiếp – Quốc hội đang ngừng họp cho đến ngày hai bốn tháng Giêng. Với thông báo ba ngày, ông ta cũng không thể triệu tập Quốc hội được.
David nói :
Ông ta đã làm được. Anh nghĩ là ông ta đã biết các thủ tục về mặt pháp lý.
Nàng suy tư một lúc rồi nói :
Dĩ nhiên Vương triều có thể triệu tập Quốc hội bất cứ lúc nào và yêu cầu họ thảo luận bất cứ điều gì. Nhưng ông ta không phải là Vương triều – hay ông ta là Vương triều ?
Chàng cười :
Rõ ràng là ông ta cư xử như một người của Vương triều.
Nhưng ông ta luôn luôn chống đối trực tiếp với chính sách của Nhà nước. Nhà nước này không ủng hộ một loại hiệu triệu từ ngai vàng hay một loại diễn văn từ Toàn quyền.
Chàng nói :
Có lẽ ông ta tự tạo cho mình một Nhà nước khác cũng nên! Anh dốt môn Sử ký lắm, nhưng anh cũng xét thấy chẳng có điều gì mới lạ đối với Nhà vua mà phải *****ng đầu với Hạ viện.
Nàng trả lời :
Chắc không. Nhưng chúng ta đã bỏ cái cách tạo sự lộn xộn cách đây hàng thế kỷ.
Đấy mới là điều làm em suy nghĩ.
Một lúc sau, chàng mới nói :
Ông ta là một người vừa thông minh vừa khôn ngoan. Và ông ta còn là một người đầy kinh nghiệm nữa, nên chẳng để mất cái gì. Ông ta không cầu xin để được làm Toàn quyền của nước Anh và khi bị giải nhiệm, theo anh nghĩ, ông ta cũng chẳng ân hận gì. Ông ta có toàn quyền hành động và suy nghĩ cần làm những việc phải làm, và nếu có sơ sẩy thì xin từ nhiệm thôi, tuy có hơi nhục. Nhưng ông ta cũng chẳng mất gì !
Nàng nói :
Dĩ nhiên là không mất gì, nhưng em băn khoăn nếu có sơ sẩy đối với Vương triều, thì lại mất quá nhiều, phải không anh ?
Theo em, mất cái gì ? – chàng hỏi.
Nàng từ tốn trả lời :
Chỉ nói riêng việc Vương triều đang kết hợp Liên hiệp Anh lại với nhau. Nếu không có Vương triều, các quốc gia trong Khối Thịnh vượng chung sẽ tan rã, mỗi nước đi theo mỗi đường. Nữ hoàng biết rất rõ về điều này, và ngài không bao giờ để cho nó xảy ra. Ngài không bao giờ bị bắt buộc phải điều qua tiếng lại với Hạ viện cho đến nỗi ngài và tất cả Hoàng gia phải thoái vị, vì điều đó có nghĩa là sự sụp đổ của Khối Thịnh vượng Anh. Em lo là vả chăng điều ấy đã ngăn cản ngài cai trị nước Anh như một Nữ hoàng phải cai trị ?
Ý em muốn nói, Thủ tướng Iorwerth Jones đã chèn ép con cái của ngài càng nhiều càng tốt như ý ông ta muốn, phải không ?
Nàng đỏ mặt một chút :
Đấy là điều em muốn nói, anh ạ !
Chàng nói :
Vậy đấy, nhưng ông ta lại không chèn ép được ôngTom Forrest. Nếu ông ta muốn có một cuộc đối địch bằng đầu với Toàn quyền, thì bất cứ lúc nào mà chả được và theo anh nghĩ dường như ông ta đang lâm trận.
Nàng nói :
Em chỉ băn khoăn… – rồi tự nhiên ngừng nói.
Chàng nhìn nàng như dò hỏi :
Em băn khoăn gì nào ?
Nàng cười, tuy có hơi khác lạ :
Điều thật đáng khôi hài nếu nước Anh có được một vị vua theo cách này. Một vị vua thật sự có thể cai trị bằng cách đứng mũi chịu sào chống lại những nhà chính trị khoác lác và bắt họ trở về vị trí cũ của họ. Vương triều thật sự đã được thay đổi, người đầu tiên từ lúc Nữ hoàng Victoria.
Hai người ngồi yên lặng một lúc, cuối cùng chàng nói :
Anh băn khoăn không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra ngày thứ Hai. Khi Quốc hội họp, ông ta đích thân đọc bài diễn văn của Toàn quyền – ông không nói như thế sao ? Ông ta sẽ đọc bài diễn văn ấy ở đâu ?
Nàng trả lời :
Ở Thượng viện. Nữ hoàng cũng thường làm như thế. Anh đoán có lẽ ông ta sẽ cho cả Thượng viện một liều thuốc với liều lượng như cũ. Cải cách bầu cử, nếu không sẽ chia tay với Nữ hoàng. Em băn khoăn tại sao ông ta dám nói một điều như thế. Em cũng tự hỏi nếu Nữ hoàng biết được điều này trước khi ra đi, ông ta có tiếp tục làm như thế chăng ?
Một ý tưởng lại hiện đến trong trí chàng phi công :
Trong lúc Vương triều muốn thăm từng quốc gia một trong Khối Thịnh vượng Anh, Nữ hoàng muốn ưu tiên lưu tâm đến những quốc gia này để họ đạt được những bước tiến bộ nhất trong việc phát triển chính trị.
Cô gái nói :
Thế đấy ! Nhưng sao ông ta lại nói đến một điều như vậy ?
Chàng cười :
Ông ta là người gan dạ và quả quyết nhưng không làm thương tổn một ai dù bị giải nhiệm. Bạn có thể nói rất nhiều điều, và không bị trừng phạt vì những lời này, vì bạn đã thôi việc.
Hai người ngồi trong yên lặng một lúc, cuối cùng chàng nói :
Giai đoạn nhiễu nhương ! Anh không nghĩ những việc như thế này lại xảy ra dài dài ở Anh.
Nàng trả lời :
Không đâu anh ạ ! Chúng ta đang sống trong thời đại có sử. Những gì xảy ra bây giờ sẽ được nói đến trong tất cả sách sử ký trong thời gian hai mươi năm, có thể tốt hơn hay xấu hơn. Và em và anh là những nhân chứng. Chúng ta chẳng có trong sách vì chúng ta chẳng phải là những nhân vật quan trọng. Nhưng chúng ta là những nhân chứng thật sự, sống trong đó, có liên quan mật thiết trong suốt giai đoạn ấy.
 

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

Chàng cầm tay nàng nói :
Em nói đúng. Chắc nó không làm em tức giận đâu nhỉ ?
Tức giận cái gì, anh David ?
Chàng cười nhìn nàng :
Vì phải để cho những việc vô nghĩa lý này tiếp diễn đúng lúc chúng ta quyết định yêu nhau.
Nhưng nó đâu quan trọng bằng hai chúng ta, anh David nhỉ ?
Không phải anh đâu nhé ! Anh mà nghĩa lý gì ! – chàng đáp.
Hai người đi ăn sáng với nhau và sau đấy chàng đưa nàng ra xe đi Tharwa. Chàng không còn gặp nàng nữa cho đến giờ ăn tối. Trông nàng có vẻ mệt mỏi, nhưng không kiệt sức. Trong lúc ăn, nàng đã kể cho chàng nghe những việc nàng đã làm :
Em đã có văn phòng mới rồi, ở South Block trên đồi Capital với ba thư ký đánh máy chọn trong số nhân viên trực.
Thế em không ở Tharwa nữa à !
Nàng lắc đầu trả lời, rồi nói tiếp :
Công tác thư tín đấy anh ạ ! Có hơn một ngàn tám trăm lá thư ở bưu điện sáng hôm nay, hầu hết là của các người lập dị. Chúng ta không thể xử lý vụ này ngay ở Vương cung Tharwa. Cô Turnbull và em suốt ngày đã đọc qua tất cả, và lựa ra những thư cần trả lời và các thư không cần. Cô ấy đã lựa ra một trăm năm mươi cái quan trọng nhất gởi đến cho Tharwa và sẽ đưa cho Thiếu tá Macmahon tối nay. Ngày mai em bắt đầu trả lời những cái khác với sự giúp sức của ba cô gái ở trực ban.
Chàng nhìn nàng :
Khổ chưa ! Thế em phải trả lời từng lá thư một à ?
Nàng lắc đầu :
Cô ấy không làm thế đâu. Tất cả đều là thư cá nhân, nhưng chúng em sẽ trả lời gọn trong một hay hai câu thôi là đủ. Tất cả các thư đều bắt đầu bằng câu “Được sự cho phép của Nữ hoàng Tôn Kính”. Thư nào cũng nói đi nói lại thế thôi, tuy cũng có thay đổi chút ít, nhưng thật ra không đủ từ mà viết, nên cái nào cũng giống nhau.”
Chàng lại hỏi :
Tiếp tục như thế bao lâu nữa ?
Nàng nhún vai trả lời :
Thiếu tá nói có lẽ cũng phải mất một tháng, công việc mới trở lại bình thường. Tuần tới tốc độ thư gửi đến có lẽ là một ngày một ngàn cái, rồi con số ấy sẽ nhỏ dần đi. Nhưng chúng em chỉ có mười ngàn tờ giấy viết thư có dấu của Hoàng gia, vì vậy chúng em được nghỉ xả hơi vài ngày. Hôm nay chúng em mới đặt in, nhưng cũng phải nửa tháng mới xong. Dĩ nhiên, đây là mùa nghỉ ngơi.
Chàng thắc mắc hỏi :
Hôm nay em trả lời được bao nhiêu cái ?
À, chẳng được cái nào, – nàng trả lời – Các em chỉ mới hoàn thiện khâu tổ chức. Một cô gái giỏi có thể hoàn thành một trăm năm mươi cái thư một ngày. Em đang xin thêm hai cô gái nữa nếu như ngày mai em nhận nhiều thư. Chẳng bao lâu nữa thì cũng thoải mái thôi !
Vào cuối tuần chàng ít gặp được nàng. Ngày thứ sáu, Quận công cùng Frank Cox bất ngờ đến phi trường, thật ra chẳng có mục đích nào khác ngoài việc thăm chiếc máy bay và ngỏ lời mời xã giao David đến tắm ở hồ bơi Tharwa khi nào thấy thích. Đây là dịp may hiếm có, bởi vì vào dịp Tết Tây, Canberra nóng đến chín mươi độ dù đứng trong bóng mát mỗi ngày, và thành phố đã lớn dậy rất nhanh nhờ hồ bơi. Thật ra, Tharwa cách thành phố đến hai mươi dặm, nhưng khi bạn đến đấy, hồ bơi thật là mộng tưởng, vừa im, vừa rộng rãi lại không có người, nằm dưới chân một vườn hoa hồng.
Chàng phi công nói :
Ngài thật quá chu đáo ! Xin phép đem cô Long đến được không ?
Được thôi !
Họ đi quanh máy bay vài phút nhìn những người chùi bóng đang làm việc ở cánh. David hỏi :
Thưa ngài, ngài có ý kiến gì nếu công việc tiếp tục cũng giống như vậy ? Nếu công việc này mất khoản mười lăm hôm, tôi sẽ cho họ đi phép.
Frank Cox nói :
Nên ở lại thêm một thời gian nữa, Nigger ạ !
Được thôi.
Quận công hỏi :
Từ đây anh có thể bay thẳng đến Kenya được không, Cơ trưởng ? Điều cần thiết là anh phải đến Sagana tìm cho ra Công chúa Anne đem về đây.
Tôi không thể bay thẳng từ đây đến đó được. Trên đường bay phải hạ cánh đâu đó để tiếp tế nhiên liệu. Chỗ tốt nhất là quần đảo Keeling Cocos. Từ đây đến Nanyuki độ mười bốn giờ bay.
Không thể lâu hơn được ?
Thưa ngài, không. Như thế là quá xa – chàng dừng một chút rồi nói tiếp – Thật ra, tôi đã nghiên cứu đường bay này ngày trước cơ !
 

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

Có gì trở ngại chăng ?
Chàng trả lời :
Dạ thưa không. Chúng tôi đã sẵn sàng, còn chờ lệnh ngài nữa thôi.
Tôi sẽ cho anh biết.
Rosamary được nghỉ chiều thứ Bảy vì cô đánh máy không làm việc ngày cuối tuần. Nàng còn làm một ít công việc ở văn phòng, sau đó vào lúc mười hai giờ David lái xe đến South Block đón nàng đến Tharwa. Họ ăn trưa với ông Macmahon trong phòng bí thư và thay áo quần ở đây, đi ra với áo quần tắm có áo choàng ngoài, đi xuống khỏi vườn hoa hồng trong nắng nóng để xuống hồ bơi.
Hai người đã ở bên nhau suốt buổi chiều, hồ bơi vắng và chẳng có ai làm phiền. Ngồi trên ghế bố bên cạnh bờ nước, hai người trao đổi những việc đại sự.
Từ khi chúng ta đến đây, em chưa lần nào gặp Nữ hoàng – cô gái nói với chàng trai – Nhưng Thiếu tá Macmahon và cô Turnbill nói rằng ngài trông rất vui. Tối nào ngài cũng nói chuyện với Huân tước Marlow ở Luân đôn bằng điện thoại, và ngài cũng đã một lần nói chuyện với ông Tom Forrest. Ngài hôm qua ngài đã nhận vô số tờ báo Luân đôn bằng máy bay và hôm nay lại nhận thêm nhiều nữa. Về cuộc cải cách bầu cử, rõ ràng là một số phận bấp bênh trong diễn tiến.
David hỏi :
Phiếu bầu nhiều thành phần, như ở đây phải không em ?
Em nghĩ có lẽ vậy. Bản thân em đã thấy giấy tờ nói gì đâu ! Thiếu tá Macmahon nói, thật đáng tiếc ông Tom Forrest đã nói ra những điều ông đã làm cho việc bầu phiếu kín và phiếu bầu của nữ giới. Ông ta nghĩ rằng sẽ được ủng hộ của mọi người ở Anh quốc.
Tại sao lại như vậy ?
Nàng nhìn chàng cười :
Anh không thể cho rằng nước Anh cứ mãi theo đuôi nước Úc, anh Nigger ạ !
Chàng cười nói :
Đâu phải cứ mãi. Chỉ thêm một lần nữa thôi. Tóm lại, dân Úc đã theo đuôi nước Anh hằng ngàn việc và vẫn sung sướng được làm như thế.
Nàng nói :
Phải, đúng như vậy. Nhưng dân Anh lại không thể thấy được hoàn toàn như thế. Đối với họ, văn hóa và phát triển chính trị là con đường một chiều.
Vào buổi chiều, chàng lái xe đưa nàng về Canberra. Thiếu tá Macmahon nói cho họ biết là Nữ hoàng sẽ đi đến Vương cung Thánh đường mới St. Mark vào ngày Chủ nhật, lần đầu tiên ngài xuất hiện trước công chúng từ khi đến Úc. David và Rosemary góp mặt để cho đoàn tùy tùng thêm đông, cả hai ngồi trên dãy ghế trong Thánh đường ngay sau lưng Nữ hoàng và Quận công, với cô Turnbill, ông Macmahon và bác sĩ Mitchison. Điều ngạc nhiên đối với David là tất cả phi hành đoàn của chiếc Tare đều có mặt do Ryder dẫn đầu, và do sự sắp xếp gấp rút của phụ tá hội đồng giáo xứ, họ được ngồi ở dãy ghế tiếp liền sau Nữ hoàng, cho nên cả ba dãy ghế những người đi lễ đã cám ơn sự giải thoát cho họ mà chẳng có lời phàn nàn.
Sau khi ăn trưa, nàng không đi xe hơi với chàng nữa. Chàng muốn đưa nàng đến Letchworth, ở đó có một bất động sản mới thuộc loại tốt ở phía trên đường Yarrow ngay ngoài địa giới của Liên bang, hy vọng thuyết phục nàng thích một trong những căn nhà ấy nhưng nàng không hứng. Nàng nói :
Chiều nay em bận làm việc rồi, anh Nigger ạ ! Trong văn phòng yên tịnh, em có thể bắt đầu trả lời thư. Thật ra, người ta chẳng có thì giờ đâu mà để ý kỹ càng từng lá thư, trong lúc bọn em, cả năm cô gái phải làm việc liên tục. Cô Jennifer Menzies cũng đến giúp em.
Cô Jennifer Menzies là ai vậy ?
Cô ta có liên hệ giòng họ với ông cụ ấy – chắc nội hay gì gì đấy. Cô ta là một trong năm cô gái đánh máy.
Cô ta có giỏi không ?
Cô gái gật đầu :
Chắc chắn cô ta là thượng thặng vì giỏi hơn các người khác nhiều. Cũng nhờ ý kiến của cô ta mà công việc đến chiều hôm nay đã giảm xuống thấy rõ.
Cô ta người Úc ?
Vâng. Cô ta ở Sydney. Cô ta đến nước Anh đã ba năm và ở Girton. Em mới thoáng nghĩ là nếu cô ta đảm nhận công việc trong vài tháng, cô ta đúng là người có thể thay thế em.
Chàng cười :
Anh rất vui mừng là em đã suy nghĩ đúng. – Chàng ngừng một lúc rồi nói tiếp – Có phải cô ta là người Úc đầu tiên được làm công tác riêng cho Nữ hoàng ?
Nàng nói :
Còn anh nữa chứ !
Ngoài anh ra, cô ta có thể đảm trách những công tác đáng tin cậy ?
Em nghĩ là được. – Cô gái nói – Em không nhớ ra là có người nước nào làm được chưa trừ người Anh. Tuy nhiên đấy chưa phải là một trở ngại.
Chàng cười nói :
Nghe ra, anh cũng là vật thí nghiệm quan trọng đấy nhỉ ?
Nàng nói :
Anh thật tinh quái, cứ trêu em hoài ! Trên thực tế, em tin là Nữ hoàng cũng sẽ mến cô ấy.
Đến tối thứ Hai, chàng còn thấy được Rosemary trước giờ ăn tối và hai người đã gặp nhau trong phòng khách. Nàng nói với chàng :
Tối nay em sẽ đi Tharwa, có xe tới đón em lúc tám giờ.
Chàng lưu ý nàng :
Việc gì mà không giới hạn giờ như thế ! Em làm sao làm được việc gì tốt nữa, nếu em kiệt sức !
Nàng cười trả lời :
Em sẽ không kiệt sức đâu vì đêm nay là một đêm quan trọng.
Ông Tom Forrest sẽ đọc diễn văn của một vị Toàn quyền chứ ?
Nàng gật đầu trả lời :
Chín giờ, giờ bên Anh. Ngài sẽ nói chuyện với Huân tước Marlow sau khi diễn văn chấm dứt và ngài muốn chúng ta ghi lại câu chuyện ấy để ngài xem lại. Cuộc thảo luận của Hạ viện vào lúc một giờ sáng và ngài sẽ nói chuyện với ông ấy bất cứ giờ nào sau cuộc thảo luận. Những cuộc nói chuyện này cũng phải được ghi chép.
 

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

Công việc như thế làm sao chàng ngăn cản được, nên chàng nói :
Như thế thì em bị mất ngủ đấy ! Anh có thể làm được gì để giúp em ?
Nàng bóp tay chàng :
Anh Nigger yêu dấu, không, anh không thể làm gì được đâu, cũng như em đã không làm gì được cho anh khi chiếc Ceres gặp lúc nguy hiểm. Hai chúng mình đều có công việc riêng để phụng sự Nữ hoàng và chẳng bao lâu nữa, công việc của em cũng sẽ xong. Không ai nghĩ rằng cuộc thảo luận của Hạ viện sẽ kéo dài đến ngày thứ hai. Điều này hay điều khác, thế thôi.
Chàng nói :
Ông ta không bao giờ bị mất ghế trong chính phủ. Đảng của họ chiếm đại đa số ở Hạ viện, trên hai trăm ghế!
Nàng nói :
Em biết, nhưng ông ta được chấp nhận là người đứng đầu chính phủ để nói chuyện với dân chúng qua đài phát thanh. Em không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng ai cũng nghĩ sẽ xảy ra rất nhanh.
Chàng đưa nàng đi ăn tối và tiễn nàng ra xe về Tharwa. Chàng đứng tán gẫu với Frank Cox được một lúc, rồi cả hai dò đài để nghe ông Tom Forrest đọc diễn văn ở Thượng viện. Nhưng bắt đài không được hay những đài Úc không tiếp vận nổi, sau đó David đi ngủ. Chàng đọc tờ Reader’s Digest được một lúc thì ngủ.
Chàng thức dậy lúc sáu giờ. Chàng đã dặn Rosemary là nếu có tin gì quan trọng thì chuồi dưới cửa một tờ nhắn, nhưng chẳng thấy tờ nhắn đâu. Nếu Hạ viện họp lúc một giờ sáng, giờ của Úc, họ sẽ thảo luận trong năm tiếng đồng hồ. Chàng cũng nghĩ rằng chắc cuộc họp còn kéo dài, nên chàng đi tắm, cạo râu và mặc áo quần.
Trong lúc đang mặc áo gió vào, có tờ giấy nhắn tin chuồi vào dưới cửa. Chàng mở cửa và Rosemary đứng đấy. Cô ta nói :
Xong rồi, anh Nigger ạ ! Nhà nước đã bị thất bại về một tu chính án, trong bài diễn văn đáp lễ.
Mặt nàng tái xanh và mệt mỏi với các quầng thâm ở khóe mắt, nhưng vẫn hồ hởi. Chàng hỏi :
Như thế nghĩa là sao ?
Iorwerth Jones và chính phủ đã từ nhiệm hay đang từ nhiệm. Người ta đã ngăn chặn sự la ó.
Chàng ngạc nhiên hỏi :
Nhưng vụ việc đã xảy ra như thế nào, khi đa số thuộc về họ ?
Nàng đặt tay trên lưng cánh cửa cho đỡ mệt trả lời :
Gần nửa số dân biểu thuộc Đảng Lao động bầu cho tu chính án của Đảng đối lập. Hai trăm lẻ chín phiếu bầu chống lại chính đảng của họ, và năm mươi tám từ chối bỏ phiếu. Đại đa số trên hai trăm năm mươi bầu cho tu chính án – như thế là cải cách bầu cử rồi !
Chàng hỏi :
Tại sao họ lại làm như thế ?
Nàng trả lời :
Chính vì Nữ hoàng. Đã có cú sốc nặng nề đối với dân chúng, Nữ hoàng bỏ đi và Toàn quyền được chỉ định. Không có cách nào nghe hết toàn bộ câu chuyện. Nhưng số đông những dân biểu ủng hộ Đảng Lao động hiểu được ý nghĩ của các cử tri trong đơn vị bầu cử và hình như chẳng có gì phải thắc mắc. Cả nước muốn cải cách bầu cử.
Chàng hỏi :
Chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo ?
Nàng trả lời :
Sẽ có chính phủ của Đảng Lao động mới khác. Kết quả là đất nước không đồng quan điểm với ông Iorwerth Jones. Ông Tom Forrest sẽ mời ông Grayson thành lập một chính phủ Lao động, cam kết thực thi một hệ thống phiếu bầu nhiều thành phần.
Chàng làm điệu bộ không bằng lòng :
Một chính phủ Lao động khác ?
Nàng gật đầu :
Giải pháp độc nhất cho nước Anh, anh Nigger ạ ! Khi mọi việc thực sự khó khăn, bạn phải đoàn kết với nhau và chia xẻ những gì bạn có được. Điều cần có là một chính phủ mới của Đảng Lao động. Nhưng từ nay trở đi, mọi việc càng ngày càng tốt hơn. Cuối cùng, nước Anh đã đi đúng đường của mình.
Chàng đồng ý :
Có lẽ ! – Và rồi chàng nói – Nhưng em phải đi ngủ và cố mà ngủ đi nhé !
Nàng gật đầu :
Em cũng định kéo tấm che nắng xuống và ngủ suốt ngày.
Chàng đưa nàng đến phòng ngủ của nàng và hỏi :
Em đã ăn sáng chưa ?
Nàng trả lời :
Nửa đêm qua, em đã ăn qua loa rồi.
Chàng dừng lại ở cửa hỏi :
Anh đem đến cho em ít thức ăn nhé !
Nàng cười nói :
Anh Nigger thân yêu, cho em xin nửa lít sữa và một ít bánh qui. Thế thôi anh nhé !
Chàng gật đầu :
Sắp sẵn đi ngủ đi, anh đi lấy thức ăn cho em. Độ bao lâu ?
 

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

Năm phút thôi. – Nàng trả lời – Thế là lâu lắm rồi !
Chàng đi vào bếp, gặp ban ẩm thực mới đổi phiên. Chàng nói rất hay, cuối cùng chàng lãnh được một bình sữa lạnh và một đĩa bánh qui và mang về phòng cho nàng. Nàng đang ngồi trên giường mặc chiếc áo ngủ mỏng, làm chàng động lòng, nhưng vì thấy nàng quá mệt nên phải cố nén sự khát khao hiện đến trong tâm hồn.
Chàng nói :
Bữa ăn sáng của em đây ! – Chàng để xuống bên cạnh giường.
Nàng nói :
Em cám ơn anh. Em sẽ ngủ ngon thôi ! – Nàng nhấp một ngụm sữa và nói – Anh David, họ có nói gì với anh về chuyến đi sắp tới chưa ?
Chàng trả lời :
Các anh đang sẵn sàng cho chuyến đi Kenya để đón Công chúa Anne.
À, thế là họ đã nói với anh. Sáng nay ngài vừa nói chuyện với Công chúa Anne. Hoàng tử Charles đang trên đường về đây với Phi đội trưởng Dewar.
Tin này cũng mới đây, chàng hỏi :
Thật hả em ?
Nàng gật đầu :
Ngài nói chuyện với Hoàng tử cách đây một giờ, trước khi em rời khỏi văn phòng. Ngài muốn tập họp các con của ngài về để họp gia đình.
Ngày mai Hoàng tử sẽ đến đây. Cũng bay qua đảo Christmas ?
Em không rõ – Có thể là như vậy, phải không anh ? – Nàng nói tiếp – Anh Nigger à, hôm nay anh sẽ nhận được lệnh và bay đi trước khi em thức dậy. Nếu vậy, có lẽ thứ Năm, em mới gặp được anh.
Chàng sửa lại :
Thứ tư chứ ! Một chuyến đi hai ngày không hơn không kém, miễn là họ sẵn sàng khởi hành khi anh đến.
Nàng nhấp một chút sữa nữa và nói :
Ngồi xuống nói chuyện với em trong một phút, nghe anh ! Cho đến khi nào em ngủ nhé ! – Chàng ngồi xuống bên nàng, cầm một bàn tay nàng và giữ yên lặng.
Trông em mệt quá ! – Chàng nói nhỏ – Cứ nằm như thế cho đến mai, trong lúc anh đi vắng nhé !
Nàng cười :
Đó là cách phản đối, phải không anh ? Nhưng cái mệt của em không có nghĩa lý gì với cái mệt của ngài. Tháng trước, em không nghĩ là ngài ngủ yên giấc.
Chàng trả lời :
Anh cũng biết thế, nhưng hai cái sai đâu có thể làm được một cái đúng. Nếu mà mệt như vậy, ngài cần nghỉ ngơi, nên ngài đâu cần em ở văn phòng.
Nàng lại nói :
Anh nói ngài cần nghỉ ngơi thì đúng rồi ! Nhưng hy vọng đấy là đỉnh cao, và từ nay trở đi cầu mong Nữ hoàng và nước Anh gặp được bể yên sóng lặng.
Chàng gõ nhẹ vào bàn tay nàng hỏi :
Thế em có thể rời khỏi công việc và kết hôn với anh chưa ?
Nàng gật đầu :
Có lẽ thế. Em nghĩ khi chúng em đã hoàn tất công việc rồi, em sẽ nói chuyện với Thiếu tá Macmahon và rồi phải bắt đầu tập việc cho cô Menzies ngay.
Có khi nào cô ấy được ở lại đây không ?
Nàng gật đầu :
Cô ta sẽ không về lại nước Anh cho đến khi nào tình thế đã yên và có lẽ cũng cho tới khi họ tổ chức được một cuộc tổng tuyển cử với quyền bầu cử mới. Chẳng bao lâu nữa cô ta sẽ phải đi Tích Lan nửa tháng và em biết là cô ấy thích đến Borneo. Nhưng đây sẽ là nhà của cô ấy và là cơ sở chính cho đến mùa thu, hay mùa xuân của nước Úc cũng thế. Nếu phải thêm một người ở văn phòng, thì việc thay đổi nhân viên cũng thuận lợi thôi !
Chàng mỉm cười ý nhị :
Anh nghĩ đấy là một sáng kiến.
Nàng cũng cười đáp lại :
Em cũng nghĩ thế ! – Nàng uống tiếp cho hết ly sữa và để ly xuống, vẫn nắm bàn tay của chàng. Giờ này thì mí mắt nàng sụp xuống tuy nàng cố nhướng lên.
Chàng cúi xuống hôn nàng và nói nhỏ :
Thôi ngủ đi nhé ! Nếu anh phải đi Kenya hay bay qua địa cầu trước khi em thức dậy, em nên biết rằng anh luôn nghĩ về em suốt đường bay và tính từng giờ để được trở về đây một lần nữa.
Nàng ôm chặt lấy chàng :
Anh Nigger thân yêu, đừng xa em lâu nghe anh !
Chàng hôn nàng một lần nữa, đặt nàng nằm lên gối, nàng nằm nghiêng một bên, thở dài, xua đuổi những mệt mỏi và đi vào giấc ngủ. Chàng đứng dậy, đến bên cửa sổ, kéo tấm chắn ánh sáng của Ý xuống, để căn phòng tối hơn, tuy vẫn còn chỗ cho gió thổi vào. Trên đường ra cửa, chàng dừng lại bên giường nàng, trong bóng tối mờ mờ, nhưng nàng đã thở đều và sâu, giấc ngủ đến bình yên. Chàng nhẹ nhàng mở cửa đi ra ngoài và cẩn thận khép cửa lại.
Chàng cũng mệt mỏi và căng thẳng không kém và giờ này chàng nhận biết là một chuyến bay mới sẽ gần kề và chàng còn phải thức khuya nhiều giờ nữa. Chàng đi trở về phòng ngủ của chàng, kéo tấm liếp xuống, nằm trên giường bề bộn để ngủ trong một tiếng đồng hồ trước sức nắng chói chang của ban ngày trở lại.
Chàng biết là mình đã trôi vào giấc ngủ, chàng và Rosemary là một. Cả hai cùng nhau tạo nên một nhân vật tuyệt vời, tách rời nhau ra thì chẳng đầy đủ. Giờ đây, sau khi thức dậy, chàng sẽ đi xa và bỏ lại nàng và trong lúc xa nàng, chàng luôn mơ tưởng tới nàng, vì nàng là của riêng chàng. Chàng sẽ đi, chỉ trong vài tiếng đồng hồ, nhưng cách xa nàng hằng ngàn dặm, và một phần tư quả đất sẽ ngăn cách hai người, nhưng chàng sẽ trở về và tìm được một nửa kia của cái tôi mới mẻ và như thế là hoàn hảo.
Chàng ngủ rất say. Trong giấc ngủ chàng cảm thấy trôi bồng bềnh càng ngày càng xa nàng, và người thì càng ngày càng yếu đuối. Thời gian ly cách sao mà mênh mông quá, không còn là hai ngày như chàng tưởng hay nhiều lắm là ba ngày. Nàng xa dần khỏi chàng ngay khi chàng nằm ngủ, chàng cố vùng tỉnh dậy nhưng giờ thì chàng đã đuối sức. Nàng ắt hẳn ở đấy rồi, cho chàng tìm kiếm, và yêu thương, đã bao năm qua, nếu chàng cần nàng sẽ đến thôi. Nhưng giờ này chàng cần nàng, cần nàng da diết nhưng nàng đâu đến nữa, trong cơn hấp hối và tuyệt vọng, chàng nghe mình nức nở khóc và chàng cảm thấy nước mắt ràn rụa trên gò má.
Chàng đã cần Rosemary và trong ba mươi năm qua hay hơn nữa nàng không thể đến. Chỉ có các loài vật đến được, đứng dang thân ngoài mưa, trong nước lũ để nhìn chàng chết. Chỉ có loài vật và người anh em cố hữu trong rừng cầm tay chàng trong lúc chàng hoảng hốt, mê sảng, mồ hôi dầm dề vì bệnh sốt rét, bàn tay ấy chạm vào người chàng, thỉnh thoảng lay động cơn rét run của chàng.
Chàng chẳng cần mục sư hay súc vật, chỉ cần Rosemary nhưng giờ này nàng ở xa quá, cái lúc chàng rất cần nàng giúp đỡ. Có tiếng vỗ đều đều như tiếng trống, không dứt, tiếng trống định âm nhỏ dần, ru chàng ra khỏi cuộc sống. Chàng biết đời chàng thế là chấm dứt và Rosemary càng ngày càng xa; chàng sẽ tìm gặp nàng một ngày nào đó nhưng giờ thì nàng không thể đến được để giúp chàng. Đôi môi chàng mấp máy thoát ra tiếng Rosemary.
Tôi buồn bã nói :
Cô ấy sẽ đến thôi. – Hình như câu ấy tôi đã nhắc lại suốt đêm.
Xơ Finlay tỉnh dậy bên tôi, Xơ nắm lấy bàn tay ông già đo mạch, mắt Xơ nhìn vào đồng hồ trong ánh sáng mờ mờ của buổi rạng đông. Tôi đứng đấy, bên cạnh giường, cố vận dụng thị lực để thấy toàn cảnh ấy, nhưng quá mệt mỏi.
Tiếng Xơ nhẹ nhàng :
Một chốc nữa ông ta sẽ đi thôi !
Xơ cầm cổ tay ông ta lặng lẽ. Tôi cố gắng, nhưng khó khăn lắm mới đứng dậy được, có Xơ đỡ bên cạnh, nhưng tôi bỏ mặc Xơ nên Xơ phải trở về với ông Stevie. Tôi đứng trên ngưỡng cửa, nhìn ra bãi đất trống nhưng trời còn mưa. Những con chó hoang và lợn rừng, cùng đàn gia súc, cả những con chuột túi loại nhỏ vẫn đứng quanh nhà trong buổi rạng đông mưa dầm và tối ám, tất cả những cái đầu đều quay nhìn về phía chúng tôi một cách thành kính, chăm chú theo dõi sự uy nghi của người quá vãng.
 

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

Chương 10

Vào khoảng giữa trưa thì Trung sĩ Donovan đến, với ông Hugh McIntyre, quản lý trại Dorset Downs, một trong những người chăn nuôi gia súc tại địa phương. Họ đến bằng thuyền từ trại chăn nuôi ấy, đó là loại xuồng đáy dẹt, chống đi bằng sào qua các con kênh nước lũ. Donovan rời Landsborough từ sáng sớm bằng ngựa và cố vượt cho được để đến với chúng tôi, nhưng ngựa không thể qua các kênh sâu, một phần vì sợ cá sấu, nên anh ấy phải đi vòng theo đường của trại chăn nuôi đến Dorset Downs và được họ cho mượn con thuyền.
Thật ra chỉ là một chiếc xuồng, bị rò rỉ khá nhiều, hơn nữa trời còn mưa nặng hạt nên đáy thuyền nước ăm ắp. Ông Liên Chi không muốn bỏ nhà ra đi, và tôi nghĩ rằng như vậy cũng làm nhẹ gánh cho Trung sĩ Donovan vì cả năm người chúng tôi lại chen chúc trên một con thuyền nhỏ, mà mạn thuyền chỉ cách mép nước một gang tay, vì thế chúng tôi phải ngồi yên, không nhúc nhích và cứ liên tục tát nước với cái lon đựng thuốc lá. Ông Hugh McIntyre hứa là sẽ bảo thằng nhỏ thổ dân, ngày hôm sau, sẽ mang đến cho ông Liên Chi, mười lít dầu hỏa, và còn gửi thêm bột mì và đường nữa.
Trước khi ra đi, chúng tôi đã chôn ông Stevie phía bên kia của khoảng đất trống, nơi những thú vật đã đến. Trung sĩ muốn nấn ná thêm một ngày nữa vì bọn họ vô cùng lo lắng cho sức khỏe của tôi. Nhưng tôi hiểu rằng khi về Dorset Downs họ muốn tôi nằm nghỉ, và như thế sẽ không có ai làm lễ an táng cho người đàn ông ấy. Vì vậy tôi năn nỉ họ chôn ông ta trước khi đi, mà thật ra đâu có mất thì giờ gì cho lắm, vì huyệt mới đào được một thước, thì nước đã lên đầy. Chúng tôi phải bỏ quan tài xuống và hối hả chôn ngay. Tôi chỉ kịp đọc những phần quan trọng trong lễ cầu nguyện trong lúc Xơ Finlay đỡ lấy cánh tay tôi và những người đàn ông đứng đầu trần trong mưa. Chúng tôi cắm một Thánh giá bằng cành cây để làm dấu nơi ấy và đánh dấu vào hai thân cây nếu trường hợp Thánh giá bị cuốn trôi đi, rồi họ đưa tôi lên thuyền trở về ngôi nhà cũ.
Tháng trước, trong các cuộc đua ngựa tháng Năm ở Landsborough, đó là cuộc đua đầu tiên trong năm sau mùa mưa, tôi bắt đầu để dành tiền để lo bia mộ cho ông ấy. Tôi nhờ các quán rượu và khách sạn vào lúc bảy giờ mỗi tối, lúc mà mọi người đến uống miễn phí sẽ tặng chút ít tiền vì ai cũng còn nhớ Stevie. Tôi phải uống bia dầu không thích lắm nhưng để ngồi nán lại kiếm cho đủ số sáu mươi Anh kim vào đêm thứ ba, vì mộ bia cũng khá đắt tiền ở một nơi như Landborough vì tiền chuyên chở tốn kém. Tôi đặt làm bia ngay ở Cairns và hy vọng trong một hai tháng sẽ xong và có thể chở về Dorset Downs để dựng ngay.
Tôi đã băn khoăn từ đầu về việc làm bia mộ sao cho thích hợp, ngay từ lúc lên thuyền trở về Dorset Downs, tuy đang bị sốt, nhưng tôi cứ suy nghĩ mãi về việc khắc tên trên bia mộ. Dĩ nhiên, họ là Anderson nhưng khó là sắp xếp làm sao cho đúng Stephan hay David hay Stephen David hay David Stephen. Trong chuyến trở về có nhiều thời gian, tôi định hỏi McIntyre hay Trung sĩ Donovan về việc này nhưng lúc ấy tôi bệnh thật sự, nên cũng không thể giải thích cho họ hiểu ý định của tôi. Họ cứ nghĩ rằng tôi đang còn mơ mơ màng màng, nên họ nói mãi một câu : “Cha sẽ khỏi thôi” và “Không lâu nữa đâu, Cha ạ !” và rồi tôi phải bỏ ý định ấy.
Dorset Downs là khu đất trên một ngọn đồi nhỏ, và chúng tôi phải xuống thuyền đi bộ về nhà cách đó một dặm. Đi bộ xa như thế đối với người bệnh như tôi, cũng lắm khó khăn, nhưng những người đàn ông quá tốt, họ cho thằng nhỏ chạy bộ về nhà kiếm cho tôi một con ngựa già và khi ngựa đến, họ đỡ tôi lên, cho ngựa đi thẳng lên đồi. Hugh McIntyre chưa có gia đình, nên chẳng có đàn bà nào mà chỉ có những chai rượu gin; họ đưa tôi lên giường và mời Xơ Finlay ở một phòng kế phòng tôi. Tôi đã ở lại đấy bốn ngày cho tới khi bình phục.
Họ có máy bộ đàm chạy bằng bình ắc quy có thể liên lạc được với Landsborough từ Dorset Downs theo thời gian biểu buổi sáng và buổi chiều. Trung sĩ Donovan đã đi về thị trấn bằng ngựa ngay buổi sáng chúng tôi đến, và trong bệnh viện cũng không có ca khẩn cấp đòi hỏi sự có mặt của Xơ, nên Xơ đã ở lại với tôi ở trại chăn nuôi suốt cả bốn ngày. Vào thời gian này, tôi rất muốn trở về Landsborough. Tôi đã vắng mặt một Chủ nhật, vì suy nhược cơ thể, điều này cũng làm tôi băn khoăn. Tôi bỏ mặc cho tờ báo của giáo khu mới thực hiện được một nửa, nên đã bỏ chuyến bay hàng tuần, đưa báo về Cairns để in ra. Tôi ao ước được trở lại ngay với công việc và khi mặt trời lên buổi sáng ngày thứ năm, tôi lại khẩn khoản họ để được trở về.
Dĩ nhiên, chúng tôi đi bằng ngựa, cả Xơ Finlay và tôi với John Collins và Harpo, hai người này làm ở trại chăn nuôi, cởi ngựa theo chúng tôi, rồi đem ngựa về. Đường đi nơi nào cũng còn nước lên độ hai gang tay, nên cởi ngựa đi cũng dễ dàng nhưng cũng phải mất đến ba giờ đồng hồ và vì cởi ngựa suốt cả đoạn đường như thế, nên khi đến được Landsborough, tôi thấy mệt nhiều. Xơ Finlay từ chối thẳng thừng việc tôi trở về tòa cha sở, và năn nỉ tôi vào bệnh viện thêm vài ngày nữa, tôi bất chấp mọi chuyện, trở về thị trấn và chẳng chịu nghe lời Xơ.
Trung sĩ Donovan đến bệnh viện ngay khi chúng tôi mới đến nơi. Tôi đang phải nằm trên giường, vì Xơ đã đem áo quần của tôi đi mất, một cử chỉ biểu hiện lòng từ tâm, nhưng thật ra không cần thiết. Tôi đang băn khoăn làm sao sắp xếp việc đặt bia cho Stevie vì một ngôi mộ ở giữa rừng, thế nào mà chẳng bị xóa sạch hay lãng quên, nhưng trái lại, nếu có bia mộ, những người làm việc cho trại chăn nuôi, mỗi lần đi qua đấy trên đường công tác, cũng xuống ngựa, để lại một vài đóa hoa trên mộ, hay khấn vái một câu gì đó khi họ biết chắc không ai nhìn thấy, mà đối với họ đấy là một việc thiện. Vì vậy tôi đã nói với Trung sĩ Donovan về việc đặt bia và khắc tên.
Cha mong muốn làm sao người đời đừng quên ông ấy, – Tôi nói với anh Donovan – Stevie đã làm nhiều chuyện đáng khâm phục.
Trung sĩ thản nhiên trả lời :
À, thế cũng tốt !
Tôi nói :
Cha hết sức ngưỡng mộ ông ấy. – Trung sĩ nhìn tôi có phần ngạc nhiên – Có một câu thơ về sự thông thái của vua Salomon mà Cha muốn khắc trên bia mộ ông ấy.
Thưa Cha, câu gì ạ ?
Tôi nói :
Hãy ráng chịu nỗi nhục thân đoài đoạn,
Để rồi người được tưởng thưởng công lao.
Chúa lòng thành sẽ tự thân cảm nhận
Có khổ đau giờ mới xứng anh hào (LNĐ).
Yên lặng một lúc rồi Trung sĩ nói :
À, thưa Cha, đúng vậy.
Tôi hơi thất vọng vì anh ta không có vẻ nhiệt tình cho lắm, nhưng đối với những cảnh sát kỵ mã ở miền Bắc Queensland không nổi tiếng vì những ứng đối lãng mạn. Tôi nói :
Có điều Cha chưa thông suốt là tên của ông ta. Dĩ nhiên họ là Anderson nhưng tên là Stephen hay David ?
Trung sĩ nhìn tôi chằm chặp :
Thưa Cha, Cha nhầm lẫn cả rồi ! – Ông ta chậm rãi nói – Anh ta đâu phải Anderson. Ở Landsborough có ai tên ấy đâu ! Tên anh ta là Stevie Figgins.
Tôi sững sốt nói to :
Anh ta nói với tôi tên anh ta là Anderson. Nigger Anderson. Người ta gọi anh tà là Nigger vì anh ta lai một phần tư da đen.
Trung sĩ lắc đầu :
Stevie Figgins, – anh ta nhắc lại – Con sẽ cho Cha xem sổ hưu của anh ta, tự tay anh ta viết. Thế hắn nói với Cha tên hắn là Anderson à ?
Tôi gật đầu :
Đúng như thế !
Thằng chả là thế đấy, thưa Cha. Hắn nói bậy bạ khi hắn là con ma men. Thế hắn nói với Cha lúc nào ?
Trong nhà của ông Liên Chi trước khi anh ta chết. – Tôi trả lời.
 

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

Donovan mỉm cười :
Lúc ấy đâu còn là hắn ta nữa. Mà Cha lúc ấy cũng không phải là Cha, vì bệnh như thế thì còn biết gì ! Con xin bảo đảm với Cha Stevie Figgons chỉ có một tên và anh ta cũng chẳng phải là dân lai đâu !
Tôi ngồi yên lặng một lúc, cố tập trung tư tưởng. Cuối cùng tôi nói :
Anh có biết gì về vợ của anh ta không ?
Donovan trả lời :
Con cũng có biết. Hai người thường đánh nhau như chó với mèo cách đây hai mươi năm, khi anh ta còn giữ chức quản lý trại chăn nuôi Wonamboola. Có lẽ cũng vì rượu mà mất việc. Chị ta bỏ chồng từ đấy và sau này bị xe tải cán chết ở Sydney. Có lẽ vào năm 1950 hay muộn hơn một chút.
Tôi hỏi :
Thế họ không sống ở Canberra à ?
Anh ta cười :
Canberra ? Có bao giờ họ đến đó đâu ! Họ không phải là loại người ấy đâu, thưa Cha.
Thế họ có con cái gì không ?
Con không nghe nói đến. Cho dầu có đi nữa, thì họ cũng chẳng trình diện bao giờ. Còn bà con, thì như con biết, chẳng có ai. Điều đó không quan trọng, vì anh ta chẳng để lại gì !
Sau đó Trung sĩ Donovan bỏ đi ngay, còn tôi ở lại một mình cố gắng hòa hợp những gì anh ta nói và ký ức của tôi. Tôi nhận ra rằng, tốt hơn tôi nên bám vào chiếc neo sự thật. Trung sĩ Donovan là một thanh niên có năng lực và điềm đạm, và tôi phải chấp nhận những điều anh ta nói về Stevie là đúng sự thật. Tuy nhiên, nó phù hợp với kinh nghiệm bản thân tôi đối với Stevie cho đến cái đêm trước khi ông ta chết ở Dorset Downs. Và riêng đêm hôm đó, tôi phải công nhận, gần suốt đêm tôi bị sốt quá cao.
Tôi định đưa vấn đề ấy, khi gặp Xơ Finlay lâu hơn, thì tối hôm đó Xơ lại mang cho tôi một tách cà phê. Tôi hỏi :
Xơ này, tôi muốn hỏi Xơ một việc. Xơ có nghe câu chuyện dài của tôi và Stevie trước khi ông ấy chết không ?
Xơ nhìn tôi lạ lùng :
Câu chuyện nào ? Con có nghe câu chuyện nào đâu !
Tôi nói :
Sau khi tắt đèn để tiết kiệm pin. Tôi hỏi anh ta về bà con thân thuộc và anh ta bắt đầu kể cho tôi nghe … vô số chuyện.
Xơ lắc đầu :
Ông ấy có nói gì đâu. Con chắc chắn thế, thưa Cha.
Không nói gì hết sao ?
Không nói gì. Cha ngồi đấy và cầm tay ông ta, nhưng cả hai người không ai nói lời nào !
Xơ có chắc như vậy không ?
Xơ vừa cười nói :
Con chắc mà ! Con lo cho Cha nhiều hơn là lo cho ông Stevie, vì ông ta trước sau gì cũng sẽ chết. Và lúc đó Cha đi ngủ, và con không đánh thức Cha dậy vì nghĩ rằng, Cha ngủ được là tốt rồi ! Cha đã ngủ suốt đêm.
Thật là kỳ quặc, vì chính mắt tôi thấy Xơ ngủ.
Xơ có chắc là Xơ không ngủ chứ ?
Xơ phản đối nói :
Thưa Cha, con không bao giờ ngủ khi có một ca bệnh ban đêm như thế và con chưa bao giờ làm sai.
Tôi nói :
Cha xin lỗi. Cha không thể bịa đặt một câu chuyện như thế, vì Cha nghĩ là anh ta đã kể cho Cha nghe cả câu chuyện dài về đời tư của anh ta.
Xơ nói :
Lúc ấy, Cha đang bị bệnh nặng. Nếu con là Cha, con sẽ quên tất cả. Có thể con đã ngủ gật một hai lần, nhưng con vẫn thức và cứ nửa giờ con đi quanh một vòng, để canh chừng cho Cha và đám súc vật khốn khổ ấy. Ông Liên Chi và con đã cho ông Stevie hai điếu nữa vào lúc hai giờ sáng, ngay trước mặt Cha nhưng Cha đâu có thức giấc.
Dầu sao, cũng phải hỏi câu cuối :
Bầy súc vật vẫn ở đấy sao ?
Dạ vâng. Chúng vẫn ở đấy. Ông Liên Chi trước đây đã thấy chúng làm như thế khi chúng bị mắc cạn trên một nổng đất dưới trời mưa.
Làm gì ?
Đứng nhìn vào nhà. Điều đó có chi mà thắc mắc, chỉ cần cây súng là đuổi chúng đi ngay. Con chẳng ưa gì bọn dã thú nhiều như thế.
Tôi giữ im lặng. Một lúc sau Xơ nói :
Bất cứ điều gì, Cha nghĩ là ông ta nói với Cha, con đều quên hết. Người ta thường nghĩ ra những điều kỳ quái khi bị sốt cao và chẳng nghĩa lý gì cả. Một phần vì điều kiện lâm sàng, một phần vì bệnh lý mà làm cho người bệnh có ảo giác. Khi một cậu bé bị bệnh, đôi khi không thể không ảnh hưởng đến tâm thần, chút ít thôi và khi cậu bé lành bệnh, tâm thần cũng hồi phục và nhanh hơn nhiều.
Cha hiểu rồi, Xơ ạ ! Đấy chỉ là một kinh nghiệm kỳ lạ, và Cha hy vọng chẳng còn như thế đâu !
Xơ nói :
Con chắc như thế ! Thấy cha bình phục nhanh chóng, chúng con định để Cha về tuần tới.
Mặc cho những lời phản đối của tôi, Xơ đã bắt tôi ở trên giường đến năm sáu ngày, nằm một mình tôi suy nghĩ, có lẽ Xơ biết tôi muốn trở về tòa cha sở ngay khi tôi khỏi bệnh. Cuối cùng, tôi cũng đã về được đấy và nhận ra người ta đã thay đổi bộ mặt của tòa cha sở. Phòng tôi ở, các cửa kiếng đã thay mới và tường thì được quét vôi màu mới, khung giường, ghế ngồi cũng hoàn toàn mới và một bếp dầu, nấu lên hơi ấm tỏa ra cả phòng. Dân chúng đã ưu ái dành cho tôi, sáng kiến của họ và tôi phải nói rằng tôi rất được họ nể trọng.
Hai tháng tiếp theo, tôi đã sống trong tiện nghi và lười biếng. Thường thường vào tháng trước khi các loại xe có động cơ trở lại hoạt động bình thường ở Gulf Country, thay vì cởi ngựa đi khắp miền, trong mùa mưa, như thời trai trẻ, tôi đã ngồi một chỗ để viết những chuyên mục cho tờ tạp chí của giáo khu, để có thể phát hành hàng tháng, qua đến mùa nắng, mà không mất thời gian nhiều vì đó là lúc chờ đợi cho con đường khô ráo trở lại để lưu thông.
Dĩ nhiên, vào mùa mưa những bộ mặt lạ lẫm cũng ít xuất hiện ở Landsborough. Nhưng một ngày cuối tháng hai hay đầu tháng ba gì đó, một chiếc máy bay lạ bay đến và hạ cánh xuống phi trường, hoàn toàn bất ngờ. Thì ra đó là một chiếc Dakota của Sở Hàng không dân dụng, cho Sở Công chánh và Địa ốc mượn có thời hạn. Hành khách và phi hành đoàn đã đến nghỉ qua đêm tại Khách sạn Bưu điện. Tôi đã gặp họ ở đấy khi tôi đến uống trà.
Thì ra họ là một nhóm chuyên viên đo đạc và kiến trúc sư từ cơ quan chỉ huy là Sở Công chánh ở Canberra. Trên đường đi, họ đã ở lại Brisbane hai ngày và bay thẳng từ đấy đến Landsborough. Tự nhiên ai cũng muốn biết họ đến đây làm gì và họ là những người thẳng thắn, thành thật nói về công tác của họ. Họ đến để tái lập phi trường ở Invergarry.
Tôi ngồi một bàn với người đàn ông, hình như trưởng toán, tóc hoa râm, trạc năm mươi lăm tuổi, ông Hutchinson. Ông ta nói :
Chẳng có gì bí mật cả, báo chí đã nói nhiều, nhưng ở đây bà con chưa nghe nói đến. Đây là sự tiếp tục phát huy Không lực Hoàng gia Úc. Chúng tôi mở lại một số phi trường trong thời chiến ngày xưa và biến chúng thành nơi thích hợp cho những phi đội đặt căn cứ thường trực. Đây là chương trình lớn, có nghĩa là những tòa nhà và nhà chứa máy bay kiên cố. Cũng phải mất năm năm mới làm xong, có thể lâu hơn. Lấy Invergarry làm thí điểm, nơi mà chúng tôi sẽ đến thăm ngày mai. Tôi biết chẳng còn gì ở đấy cả.
 

rko_4180

New Member
Ðề: Mùa mưa_Nevil Shute

Tôi lắc đầu :
Cách đây ba năm, tôi có đi qua đấy.
Thật à ? Chẳng còn gì ở đó, phải không ?
Tôi trả lời :
Chẳng còn gì trừ phi đạo, đang còn tốt nhưng chẳng có nhà cửa gì cả !
Trống không à ?
Trống không.
Ông ta quay về nói với một người khác :
Như bạn đã nói, Harry này, người Mỹ đã lấy mọi thứ đi cả rồi ! – Quay lại phía tôi ông ta nói – Cha nghĩ có khôi hài không, chúng tôi chẳng biết gì ráo ! Nhưng đây là những phi đạo của Mỹ trong cuộc chiến với Nhật, chúng tôi cũng chẳng tham gia gì mấy, hơn nữa những thứ đặt ở nơi người ta không qua lại hằng ngày.
Chúng tôi trao đổi một ít ý kiến về công việc họ sắp làm. Bắt đầu khởi công từ nền của những phi đạo cũ, khảo sát và họa đồ để làm một căn cứ mới cho Không lực Hoàng gia Úc, ngay ở giữa rừng, có khả năng đầy đủ tiện nghi cho một phi đội, như là bước khởi đầu để sau này trở thành căn cứ của một phi đoàn. Ông Hutchinson nói:
Ít nhất cũng phải mất năm năm trước khi một phi đội hình thành với cả máy bay của nó, làm việc trong thời bình, nên cũng có thể lâu hơn.
Tôi nói nho nhỏ :
Tương lai, có trực thăng ở đấy không ?
Trực thăng ? Ồ, tôi không được rõ lắm. Tôi tin là người ta chỉ chú ý đến oanh tạc cơ loại trung. Tuy mỗi căn cứ cũng có một hai chiếc trực thăng để xê dịch.
Chúng rất tiện lợi cho việc liên lạc. – Một người khác nói.
Tôi ngồi ở bàn với họ một lúc sau khi ăn, vì muốn đi chỗ khác thì chỉ có một chỗ là quầy rượu, và không có ai trong số chuyên viên đo đạc là những tay nhậu bia “chuyên nghiệp”. Ngồi như vậy, suy nghĩ về những điều họ đã nói với tôi, tôi quyết định hỏi ông Hutchinson :
Thế các bạn có biết rõ Canberra không ?
Ông ta nói :
Tất cả chúng tôi đều ở đấy. Chúng tôi mới dọn đến năm ngoái từ Melbourne. Nhưng riêng tôi, có khi ở mà cũng có đi, gần mười một năm qua.
Thế anh có biết một địa danh là Letchworth không ?
Biết chứ – ông ta trả lời – Nó nằm ngay phía ngoài biên thùy Liên bang thuộc New South Wales.
Thế anh có biết con đường Yarrow ở Letchworth không ?
Ông ta nhăn mày :
Không thể nói là tôi biết. Nhưng ở đấy chỉ có một hay hai con đường gì đó thôi ! Anh Simon có lẽ biết – anh ấy làm việc ở Canberra trước khi đến làm với chúng tôi. Này Simon, có biết con đường Yarrow ở Letchworth không ?
Một thanh niên tóc đỏ hỏi :
Để làm gì ?
Có một con đường tên là Yarrow ở Letchworth phải không ? Cha Hargreaves hỏi như thế.
Người thanh niên trả lời :
Sắp có thôi, người ta đâu đã làm. Theo như tôi biết, cũng chưa cắm cọc, phân giới hạn. Đó là con đường người ta định làm, chạy lên đồi, cách xa đường xe lửa. Tất cả đều được đặt tên giống như các địa danh ở bên Anh. Xem bản đồ sẽ rõ, người ta làm chấm chấm.
Tôi hỏi :
Đã có căn nhà nào trên đường chưa ?
Anh ta lắc đầu :
Toàn là rừng nguyên sơ. Chưa có dự định xây nhà, thưa Cha. Làm sao Cha nghe được tin ấy ?
Tôi nói mập mờ :
Có một gã tôi quen nói là muốn xây nhà trên con đường Yarrow ấy.
Anh Simon cười :
Chắc anh ta phải chờ đợi lâu lắm.
Anh có ý kiến gì về việc làm con đường này ?
Anh ấy lắc đầu :
Cha làm ơn nói cho tôi biết mất bao lâu Canberra mới được phát triển? Thành phố phải trở thành một đô thị ba bốn trăm ngàn dân, đường Yarrow mới được khởi công xây dựng, phải không ?
Ông Hutchinson nói :
À không, còn lâu hơn thế nữa kia !
Một cuộc thảo luận ngắn, chẳng đâu vào đâu. Tôi hỏi :
Thế giờ đây dân số là bao nhiêu ?
Ông ta trả lời :
Hai mươi mốt ngàn. Vậy phải hai mươi năm nữa mới bắt đầu làm, thông thường là vậy. Một khi đã làm, người ta phải trù tính nhà ở hai bên đường sao cho đẹp.
Tôi trở về tòa cha sở đêm ấy, băn khoăn, nghĩ ngợi.
Tuy nhiên, tôi cũng chẳng có thì giờ đâu mà suy nghĩ về những vấn đề này, bởi vì ngay cả mùa mưa, cuộc sống của tôi ở Landsborough cũng đã quá bận rộn. Không phải là những công việc thường nhật như cầu kinh sáng cho học sinh, thăm viếng, và ngay sau đó tôi phải rời khỏi bệnh viện, vì họ đã bầu tôi vào Hội đồng Quản hạt, một vinh dự lớn cho tôi, khi phải nói nhiều ở nơi công cộng. Nhờ chức vụ này mà tôi hối thúc họ thành lập một trường Mỹ thuật, những nơi khác người ta gọi là Thư viện công cộng, đồng thời tôi cố gắng thành lập Hội phụ nữ địa phương. Như thế để chứng minh rằng, rất mất thì giờ, để tìm hiểu quan niệm của những người không am hiểu và cũng cần thời gian để góp nhặt từng đồng để gây quỹ và cũng có lắm công việc như biên thư cho những thành phần ở Brisbane và những đô thị khác. Thành thử tôi ôm đồm nhiều công việc và cũng lấy những công việc ấy làm vui, vì tôi không muốn người ta nghĩ rằng, mục sư của họ chỉ ngồi khoanh tay vào mùa mưa, khi thật khó cho tôi muốn đi lại thăm viếng trong giáo khu.
Mọi sự cuối cùng rồi cũng chấm dứt, và vào khoảng giữa tháng ba chúng tôi liên tục có những ngày trong sáng với mặt trời chói nắng. Chúng tôi cũng còn chịu một hai trận mưa giông để dứt điểm mùa mưa, nhưng vào cuối tháng xe hơi bắt đầu hoạt động trở lại trong phạm vi Landsborough và nước trên con đường đã khô. Đến giữa tháng tư, xe tải đã có thể lưu thông tới vùng Cloncurry trở lại và tôi lại có thể thăm viếng trong họ đạo.
Dĩ nhiên, tôi có nhiều việc để làm. Cũng nhờ những máy thu thanh nhỏ và máy bay, tôi đã biết được những gì đang xảy ra. Có một số các em nhỏ sinh ra trong mùa mưa được tôi rửa tội, vài đám tang được ban phép lành. Trước tiên, tôi đi về hướng đông, đến huyện Newmarket River thuộc giáo xứ của tôi. Điều kiện đi lại không phải dễ dàng, có khi tôi phải bỏ mất một ngày Chủ nhật ở Landsborough vì đường trở về đến một trăm ba mươi dặm và ở đấy cũng có nhiều việc để làm, tôi nghĩ là nên ở lại để làm thỏa mãn các đòi hỏi tinh thần của người dân trong vùng ấy. Trong chuyến đi xa ấy phải mất mười một ngày, và suốt cả vùng ấy đang còn ướt át, lầy lội, nhưng tôi vẫn khỏe mạnh vì được nghỉ ngơi dài ngày cho lại sức.
 
Top