Phân tích bài "người lái đò sông đà"

[ẹc]

...
Staff member
Luyện thi ĐH Môn Văn - Người lái đò sông Đà (tiết 1)
Luyện thi ĐH Môn Văn - Người lái đò sông Đà (tiết 2)
Luyện thi ĐH Môn Văn-Người lái đò sông Đà (tiết 3)
Luyện thi ĐH Môn Văn-Người lái đò sông Đà (tiết 3)
 

[ẹc]

...
Staff member
Nghề lái đò sông Đà

Hình tượng người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân đã đi vào huyền thoại bởi sự dũng cảm chiến đấu với sóng nước hiểm nguy. Đấy là trong tác phẩm văn chương, còn trong thực tế sự dũng cảm ấy vẫn như xưa, những người lái đò vẫn chiến đấu với gầm gào sóng thét. Chỉ có điều, dòng Đà giang dường như đang hiền hơn để những người lái đò có cơ may kiếm bát cơm manh áo.
Dòng sông huyền thoại

Trong cái lạnh cắt da, cắt thịt những ngày cuối năm Canh Dần, nhóm phóng viên Báo KH&ĐS đã có mặt trên dòng Đà giang. Chúng tôi đã lênh đênh trên dòng sông mà nhiều người thêu dệt là có quái vật sông luôn quanh quẩn đâu đó chỉ trực chờ cơ hội là bắt người.

Nhưng những người mưu sinh trên dòng sông này cho rằng đó chỉ là những lời thêu dệt ác ý. Dòng sông Đà giờ đây hiền hòa, yên ả lắm! Nước xanh đen phẳng lặng ở những đoạn uốn hình long. Chỉ trừ những nơi có đá núi gấp khúc mới đáng sợ, đáng gờm và đáng thử thách lòng dũng cảm.

Trước sau như một, những ai đã từng một lần đặt chân đến Sơn La, trầm mình vào dòng sông Đà êm ái mới thấu hiểu hết hùng vĩ của trời đất. Sông Đà không còn giống "một gã say rượu" hung hăng mà đang dần thành cô gái bản xinh đẹp, dịu hiền. "Mái tóc xanh" là dòng nước mát chảy mãi, chảy mãi miệt mài ngày đêm.

images642138_T11_doc.jpg

Bố hút chết, con nối nghiệp

Một anh bạn người bản địa xã Bắc Ma (Quỳnh Nhai, Sơn La) dáng người mảnh khảnh vui vẻ nhận lời làm hướng dẫn viên du lịch miễn phí cho chúng tôi ngược dòng Đà giang cùng những người lái đò huyền thoại trên dòng sông này.

Chúng tôi gặp lái Lò Văn Tọa khi trời đang nhọ mặt người. Dù thời tiết trong cái lạnh của núi rừng sông nước có làm cho vô số trâu bò ngã khụyu thì Tọa vẫn vận chiếc áo ba lỗ đã ngả màu để lộ ra cánh tay cơ bắp cuồn cuộn đen như hun khói.

Xuống bến đò ở xã Mường Sạy, Tọa lẹ người đẩy mũi thuyền ra xa, chân bên kia lấy đà nhảy tót lên mui đánh huỵch. Tiến tới đuôi thuyền, một tay giữ máy, một tay dùng quay phình phịch chiếc máy nổ tồi tàn. Bọt nước từ cánh quạt bắn lên tung tóe. Tọa toét miệng cười bảo, cái máy này với cái thuyền này là "đệ nhất thọ" ở dòng Đà giang này.

Hỏi ra mới biết, bố Tọa từng được dân sông nước phong tặng biệt danh "Vua gàn Đà giang". Chẳng là trước đây, ông tậu được chiếc thuyền để làm nghề vận chuyển người và các loại hàng hóa trên sông Đà. Trong một khúc nước xiết, ông bị văng ra khỏi thuyền trôi theo dòng nước dữ. Tưởng mãi mãi nằm dưới đáy Đà giang, trong khi sắp lịm thì chiếc thuyền của ông trôi. Ông bấu vào đó và sống sót. Bỏ nghề, ông truyền lại cho con cháu không được phụ chiếc thuyền ấy, khi nào thuyền hỏng thì người bỏ nghề.
images642139_T11_doc1.jpg
19 tuổi, Ất là người lái đò trẻ nhất trên dòng Đà giang.

Tọa thành thật, làm phận lái đò không sung sướng gì. Những ngày sông lặng sóng thì chẳng kể làm gì nhưng khi sóng dậy do bão lũ hay như trận động đất vừa qua khiến anh hú vía. Đang chở hàng cho khách ngược lên Lai Châu thì bất ngờ chiếc thuyền chòng chành rồi như dựng ngược. Tọa phải bám vào lan can thuyền mới không bị ngã.

Anh cho biết, nghề tuy vất vả nhưng nếu chịu khó "phục khách" thì sống cũng đủ. Mỗi chuyến chở hàng từ Sơn La lên Lai Châu cũng kiếm ngót nghét triệu đồng. Trừ tiền dầu, ăn uống cũng còn 500.000đ. Với số tiền ấy, Tọa có thể trang trải cuộc sống cho gia đình cả tháng trời.

"Bắt mạch" nhu cầu của khách, ở Sơn La hiện nay tại những bến đò đã và đang xuất hiện nhiều người lái đò mới nên để đảm bảo cuộc sống cho gia đình cũng không phải dễ dàng. Những người lái đò trên dòng Đà giang đôi khi phải đánh đổi cả tính mạng vào những chuyến hàng ngược dòng xa xôi tận đầu nguồn biên giới Trung Quốc.

Nghề không có tuổi

Nói tới lái đò sông Đà nhiều người nghĩ ngay đến đó phải là những con người vạm vỡ, thiện nghệ trong nghề hay ít ra là phải có tuổi do kinh nghiệm sông nước. Nhưng không phải vậy, khi chúng tôi đang ngược dòng lên vùng Lai Châu thì bắt gặp một chàng lái đò tuổi vừa 19.

Đó là Lềm Văn Ất người xã Điệp Muội, huyện Quỳnh Nhai. Chiếc áo xanh mỏng dính cùng chiếc mũ đỏ vẫn không làm Ất già hơn cái tuổi vừa tốt nghiệp cấp III. Ất ngài ngại khi tiếp xúc với phóng viên, cậu bảo: "Cũng vì cuộc sống cả thôi anh ạ. Nghèo thì phải kiếm tiền để nuôi mình và gia đình chứ. Nghề này tuy nguy hiểm nhưng xuống xuôi em không biết làm gì...".

Ất tâm sự, vừa tốt nghiệp THPT nhưng không có tiền thi đại học. Ở nhà thì cũng chẳng biết làm gì ngoài chăn bò và nuôi mấy con lợn mán, thế là hết nghề. May sao, một người cậu của Ất hành nghề lái đò trên mạn Lai Châu mới đưa cháu vào nghề.

Mới đầu vào nghề, Ất phải đi theo người cậu cả tháng trời để quen việc. Ất phải học từ cách lái máy đến vượt dòng ở các khúc cua gấp. Đặc biệt, việc xử lý tình huống nguy hiểm khi nước dâng đột ngột thì phải thật thành thạo nếu không mất mạng như chơi.

images642140_T11_Toa_dua_chiec_do_cap_ben.jpg
Tọa đưa chiếc đò cập bến.
Vì mới vào nghề nên Ất chưa có nhiều khách quen, vả lại nhìn cậu non nớt nên không ít khách hàng lắc đầu nguầy nguậy vì không mạo hiểm giao tính mạng mình vào tay một đứa trẻ. Tiền Ất kiếm được chủ yếu từ các mối giao và nhận hàng, mỗi tháng trừ tiền xăng dầu cậu cũng để ra được hơn triệu đồng.

Trong giới lái đò sông Đà, không ai không biết "lão bố" Lò Đênh Giảng - người huyện Yên Châu nổi tiếng. "Lão bố" năm nay đã vào tuổi 76 nhưng còn quắc thước lắm. Tôi giơ máy ảnh lên định chụp, "lão bố" xua tay cười trừ: "Đừng chụp bố, bố không thích thành người "nổi tiếng" đâu. Bố nổi tiếng khắp dòng Đà giang này rồi...".

Nghe anh bạn bản địa nói, chúng tôi mới biết "lão bố" sinh ra đã là một đứa trẻ mồ côi rồi làm nghề sông nước từ khi có trí khôn đến giờ. Không vợ con, không gia đình, một mình lang bạt trên dòng sông Đà hùng vĩ bấy nhiêu năm trải qua bao nhiêu sóng gió, mấy mươi lần chết hụt do bão táp gây ra nhưng con người ấy vẫn bám trụ trên chiếc đò cũ nát.

"Lão bố" ngoặt chiếc đò ấy ngược dòng Đà giang, xa xa tiếng hát người lái đò sông Đà vẫn vọng lại hòa với gió rừng sóng nước vi vu.

Tên tuổi của dòng sông Đà đã được in đậm trong các tác phẩm văn chương từ cổ chí kim. Dòng sông uốn lượn ấy đã thu hút bao văn nhân mặc khách đến đắm hồn mình vào dòng nước vừa xanh lại có lúc đen lạ kỳ. Sông Đà bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và nhập với sông Hồng ở đoạn Phú Thọ. Ở Trung Quốc sông có tên là Lý Tiên Giang do hai nhánh sông Bả Biên Giang và A Mặc Giang hợp thành. Điểm đầu của sông bắt đầu từ biên giới Việt - Trung tại huyện Mường Tè, Lai Châu rồi chảy qua Sơn La hiểm trở.
Trần Hòa - Quách Dương
 

Boom

Active Member
Phân tích hình ảnh con sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” (Nguyễn Tuân)


DÀN BÀI​


I. Mở bài:

- Là một nhà văn tài hoa, độc đáo, Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái gì dữ dội, mãnh liệt hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước …

- Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết, ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, cỏ cây trên đất nước mình. Bút kí “Người lái đò sông Đà” đã thể hiện đậm nét phong cách Nguyễn Tuân. Cảm hứng về dòng sông Đà “hung bạo và trữ tình” chảy trên trang văn củaNguyễn Tuân biến vùng sông nước ấy thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc.

II. Thân bài:

1. Khái quát:


- “Người lái đò sông Đà” rút từ tập tùy bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân.
- Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp ông đến với Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958.

- Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng khác nhau, sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới đã đem lại cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.

- Đến với những tác phẩm của Nguyễn Tuân là ta đang đến với một tâm hồn vô cùng phong phú, với những phát hiện hết sức tinh tế, độc đáo về quê hương. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước ấy cũng chính là tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông Đà – dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông. Chỉ có N.T mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước N.T có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ. Cũng không có ai như Nguyễn, để có thể hạ bút viết đúng 3 câu về màu sắc nước sông Đà đã phải có mấy lần bay ngang qua miền sông ấy. Dòng sông Đà trong cảm nhận của nhà văn có hai nét tính cách đối lập: hung bạo và trữ tình.

2. Phân tích:

a. Sông Đà hung bạo:

- Vách đá “đá bờ sông dựng vách thành” và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách:

+ “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”

+ Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ can nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách…

+ “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”

-> So sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như N.T luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng nay ăm ắp để tìm cho được một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.

- Gió trên sông Đà: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm …” -> bằng lối viết tài hoa, những câu văn diễn đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người.

- Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát: “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên …” những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác” -> Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.

- Âm thanh thác nước sông Đà:

+ Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá.

+ Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa … rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…” -> Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, N.T quả là đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật.

- Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá: “Cả một chân trời đá … mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó” -> Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vi thạch trận.

+ Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì “hất hàm” đứa thì “thách thức”, “mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo”, sóng nước “đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền”…

+ Trùng vi thạch trận thứ II: Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng nhiều cửa tử, cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn…

+ Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở ngay giữa.

-> Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một của con người”. Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút VN.

b. Sông Đà – trữ tình:

- Dòng sông Đà không chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế manh trên sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo …”

- Màu sắc dòng sông thay đổi theo mùa:

+ “Mùa xuân xanh màu ngọc bích”, khác với sông Gâm, sông Lô “màu xanh canh hến”.

+ Mùa thu nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa …” -> Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.

- Đến với sông Đà, hăm hở, say mê đến nỗi tác giả như thấy mình như đang “sắp đổ ra sông Đà”. Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” …

- Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa… lặng tờ “như từ Lí, đời Trần, đời Lê”.

-> Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có –Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài hoa bậc nhất của nền văn học Việt Nam.

III. Kết bài:

Phong cách Nguyễn Tuân độc đáo và phong phú. Ở tùy bút “Người lái đò sông Đà” chúng ta thấy phong cách giá trị của ông thể hiện rõ nhất là sự nhọn sắc của giác quan nghệ sĩ đi đôi với một kho chữ nghĩa giàu có và đầy màu sắc, lối văn rất mực tài hoa. Dòng sông Đà “hung bạo và trữ tình” chảy mãi trong dòng văn học nước nhà như niềm yêu mến và tự hào về cỏ cây sông núi quê hương của nhà văn Nguyễn Tuân.

(Sưu tầm) .
 

Boom

Active Member
1) Hình tượng con sông hung bạo

- Khi hung bạo, sông Đà là kẻ thù số một sẵn sàng cướp đi mạng sống con người, có tâm địa độc ác như người dì ghẻ. Để khắc hoạ tính cách của sông Đà, tác giả đã dựng lại khúc sông nguy hiểm :

+ Đó là đoạn cảnh đá bờ sông dựng đứng vách thành: chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đó là quãng Hát Loóng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đây. Lại một đoạn sông khác, sông Đà là cái hút nước xoáy tít. Có những thuyền đã bị nó hút tụt xuống, thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi dến mười phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.

+ Nhưng dữ dội nhất là ở những thác đá. Nguyễn Tuân đã buộc sự dữ dội, nham hiểm của sông Đà phải hiện lên thành hình và gào thét bằng trăm ngàn âm thanh. Chưa thấy sông nhưng người ta đã bị đe doạ bởi tiếng thác nước nghe như oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng nghe gằn mà chế nhạo. Tác giả đã dựng lại cuộc thuỷ chiến giữa sông Đà và người lái đò để lột tả cho được tính hung bạo của nó và tài nghệ của người lái đò. Thác đá được xếp thành từng tuyến mà nhà văn gọi là thạch trận, nhằm ăn chết cái thuyền đơn độc. Ở tuyến một, thác đá mở ra năm cửa trận, bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn. Ở tuyến hai, tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại nằm bên phía hữu ngạn. Ở tuyến ba, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống nằm ở giữa. Người lái đò phải nhắm đúng luồng sinh để vượt qua.

2) Hình tượng con sông trữ tình

Bên cạnh tính cách hung bạo, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân con sông Đà lại rất trữ tình, gợi bao cảm xúc làm mê say lòng người. Khi trữ tình, sông Đà hiền hoà, mềm mại, huyền ảo như mái tóc của một phụ nữ kiều diễm : con sông tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mây mù khói núi Mèo nương xuân.

- Không chỉ đẹp ở hình dáng, sông Đà còn gợi cảm ở màu sắc, mà tác giả đã bao lần dày công quan sát mới nói hết được vẻ độc đáo ấy: Mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích (nghĩa là một màu xanh trong và sáng); mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đổ như mặt người bâm đi vì rượu bữa

- Đặc biệt là không khí hoang dại, tĩnh lặng : Bờ sông hoang dại như bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Đề lột tả không khí đầy thơ ấy. Nguyễn Tuân đã tả đàn hươu ngẩng đầu ngơ ngác mơ một tiếng còi sương, và cái nắng tháng ba Đường thi Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu, gợi tâm sự của người tình nhân chưa quen biết !

- Lúc này, không thấy đâu con sông Đà diện mạo và tâm địa độc ác, mà chỉ thấy tình cảm của dòng sông đối với con người như một cố nhân, xa thì thấy nhớ thương, gặp lại thì thấy mừng vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Còn con sông lại mang bao rung động yêu thương như nhớ những hòn đá xa xôi để lại nơi thượng nguồn.

- Khi tả con sông Đà trữ tình, Nguyễn Tuân đã sử dụng những câu văn nhẹ nhàng, êm ái. Câu ngắn, vị ngữ diến tả trạng thái bình lặng, để lại trong lòng người âm hưởng mênh mang, thơ mộng.

3 -Người lái đò sông Đà

- Lòng dũng cảm :

Chỉ từng trải thôi chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một :

… Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đat nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này…Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn…

Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là kết thúc.

- Nghệ sĩ tài hoa :

Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác củaNguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.

Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác.

Xông trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét : Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dế thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, người lái đò chỉ có Nguyễn Tuân. Và, lời ghi chú của nhà văn thật đáng để suy ngẫm!

(Sưu tầm)
 
Top